Các DN cũng kiến nghị, trong điều kiện kinh tế trên thế giới khó khăn hiện nay đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động vận tải biển, không như lĩnh vực thương mại và dịch vụ khác có thể tạm ngừng hoạt động kinh doanh, DN vận tải biển phải đầu tư vốn rất lớn để mua, thuê phương tiện mà phần lớn vốn đi vay ngân hàng; chịu rủi ro cao; việc không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào càng tạo thêm khó khăn cho các DN vận tải biển. Các DN vận tải kiến nghị cho phép các DN vận tải biển được khấu trừ số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng cho hoạt động vận tải giữa các cảng nước ngoài từ ngày 01/01/2011 đến trước ngày 01/3/2012.
Trước kiến nghị của các DN, Bộ Tài chính đã căn cứ các Quy định về vận tải quốc tế:
Tại điểm d khoản 1 Điều 6 Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày của Chính phủ có quy định về vận tải quốc tế được áp dụng thuế suất 0% như sau: “d) Vận tải quốc tế quy định tại khoản này bao gồm vận tải hành khách, hành lý, hàng hoá theo chặng quốc tế từ Việt Nam ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài đến Việt Nam. Trường hợp, hợp đồng vận tải quốc tế bao gồm cả chặng vận tải nội địa thì vận tải quốc tế gồm cả chặng nội địa.”
Căn cứ quy định nêu trên thì hoạt động vận tải biển giữa các cảng nước ngoài chưa được quy định thuộc hoạt động vận tải quốc tế được áp dụng thuế suất 0%.
Về phạm vi điều chỉnh, tại Điều 3 Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 có quy định về đối tượng chịu thuế “ Hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, trừ hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế quy định tại Điều 5 của Luật.”.
Căn cứ quy định trên thì hoạt động vận tải biển giữa các cảng nước ngoài không thuộc phạm vi chịu thuế GTGT tuy không được quy định nằm trong nhóm đối tượng không chịu thuế tại Điều 5.
Về dịch vụ xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0%, tại điểm b khoản 1 Điều 6 Nghị định số 123/2008/NĐ-CP về dịch vụ xuất khẩu áp dụng thuế suất 0% có quy định “b) Đối với dịch vụ xuất khẩu bao gồm dịch vụ cung ứng trực tiếp cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài hoặc ở trong khu phi thuế quan. Tổ chức ở nước ngoài là tổ chức không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, không phải là người nộp thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam. Cá nhân ở nước ngoài là người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và ở ngoài Việt Nam trong thời gian diễn ra việc cung ứng dịch vụ. Tổ chức, cá nhân trong khu phi thuế quan là tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh và các trường hợp khác theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.”
Căn cứ quy định trên, nếu hoạt động vận tải từ cảng nước ngoài đến cảng nước ngoài thoả mãn 02 điều kiện là: (1) có hợp đồng với tổ chức, cá nhân nước ngoài và (2) có chứng từ thanh toán qua ngân hàng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 6 Nghị định số 123/ 2008/NĐ-CP thì đáp ứng điều kiện dịch vụ xuất khẩu được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0%. Theo đó, thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào tại Việt Nam để sử dụng cho hoạt động vận tải từ cảng nước ngoài đến cảng nước ngoài được kê khai, khấu trừ và hoàn thuế nếu đáp ứng được các điều kiện về hoá đơn, chứng từ và thanh toán qua ngân hàng theo quy định.
Trường hợp doanh nghiệp vận tải hàng hoá từ cảng nước ngoài đến cảng nước ngoài cho một DN Việt Nam thì không đáp ứng điều kiện dịch vụ xuất khẩu được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0%.
Từ các căn cứ pháp lý như trên, Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ cho phép các doanh nghiệp vận tải biển được khấu trừ số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng cho hoạt động vận tải giữa các cảng nước ngoài từ ngày 01/01/2011 đến trước ngày 01/3/2012.
KL
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.