Lần đầu tiên công bố bảng xếp hạng đại học Việt Nam |
Thành viên của Nhóm gồm sáu người: TS. Lưu Quang Hưng, nhà nghiên cứu làm việc tại Melbourne, Australia (chủ biên báo cáo xếp hạng); TS. Nguyễn Ngọc Anh, Giám đốc và nhà kinh tế trưởng của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách DEPOCEN (đồng chủ biên báo cáo); TS. Giáp Văn Dương, nhà nghiên cứu độc lập, Chủ tịch Công ty GiapGroup (đề xuất dự án xếp hạng); TS. Ngô Đức Thế, nhà nghiên cứu đang làm việc tại Đại học Manchester, Anh; ThS. Trần Thanh Thủy, nhà nghiên cứu tại DEPOCEN; và ThS. Nguyễn Thị Thu Huyền, nghiên cứu sinh tại Đại học East Angila, Anh.
Trong lần đầu công bố, Nhóm đã xếp hạng 49 trường đại học có đầy đủ thông tin nhất trong số dữ liệu hơn 100 trường mà Nhóm thu thập được từ năm 2014.
Nhìn chung, cho đến nay, đại học Việt Nam chưa được xếp hạng một cách định lượng: trong các bảng xếp hạng đại học uy tín trên thế giới như Times Higher Education (THE), World University Rankings (QS), Webometrics..., Việt Nam chưa có trường đại học nào lọt vào danh sách Top 1000; trong khi đó, bảng xếp hạng phân tầng đại học thành ba hạng theo Nghị định do Chính phủ ban hành từ năm 2015 cũng chưa thấy được công bố.
Trong bối cảnh như vậy, Nhóm Xếp hạng Đại học Việt Nam, một nhóm chuyên gia độc lập với cơ quan quản lý nhà nước, đã tiến hành đề án xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam với kỳ vọng, báo cáo xếp hạng sẽ trở thành nguồn tham khảo khả tín cho xã hội, tạo ra động lực cải cách cho các trường, đồng thời mở ra phương pháp và tiền lệ đánh giá xếp hạng đại học cho các năm tới.
Theo kết quả này, top 10 trường đại học hàng đầu Việt Nam bao gồm: Đại học quốc gia Hà Nội (1), Trường Đại học Tôn Đức Thắng (2), Học viện Nông nghiệp (3), Đại học Đà Nẵng (4), Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh (5), Trường Đại học Cần Thơ (6), Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội (7), Đại học Huế (8),Trường Đại học Duy Tân (9), Trường Đại học Sư phạm (10).
Kết quả trên cho thấy, các đại học quốc gia và đại học vùng đều có thứ hạng cao. 3 trong tổng số 5 trường top đầu là các đại học quốc gia và vùng ở trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước, bao gồm Đại học Quốc gia Hà Nội (số 1), Đại học Đà Nẵng (thứ 4) và Đại học Quốc gia TPHCM (số 5). Trong Top 10 trường hàng đầu còn có sự góp mặt của các đại học lớn khác là Học viện Nông nghiệp (thứ 3), Đại học Cần Thơ (thứ 6), Đại học Bách khoa Hà Nội (thứ 7), và Đại học Sư phạm Hà Nội (thứ 10).
Đáng chú ý, các trường đại học thuộc khối kinh tế có tiếng lâu nay và là lựa chọn của nhiều sinh viên giỏi đều có xếp hạng trung bình, như các trường Đại học Ngoại thương (thứ 23), Đại học Thương mại (thứ 29), Đại học Kinh tế Quốc dân (thứ 30) và Học viện Tài chính (thứ 40).
Nguyên nhân được xác định là do sự hiện diện của các trường này trên các ấn phẩm khoa học quốc tế còn mờ nhạt, đồng thời có thể quy mô đào tạo lớn hơn so với năng lực đội ngũ cán bộ giảng dạy có trình độ (đo bằng tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ trên sinh viên). Các trường sẽ cần vượt qua nhiều thách thức, đặc biệt trong công bố quốc tế, nếu muốn vươn lên vị trí cao hơn trong bảng xếp hạng thời gian tới.
TS Lưu Quang Hưng, thành viên của nhóm Xếp hạng Đại học Việt Nam cho biết: Căn cứ chủ yếu để xếp thứ hạng là thành tích của công bố quốc tế, phản ánh thành quả của chính sách đầu tư và khuyến khích xuất bản của các cơ sở đào tạo này. Số sinh viên được đào tạo và tỷ lệ có việc làm cũng là tiêu chí được nhóm đánh giá là quan trọng. Ngoài ra các yếu tố liên quan tới điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo, trong đó có chất lượng đội ngũ giảng dạy cũng là yếu tố được coi trọng.
Các nguyên tắc được đề ra khi nhóm tiến hành đánh giá là phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, định lượng, khả tín, khách quan, hướng tới chuẩn mực quốc tế.Việc đánh giá của nhóm hoàn toàn độc lập, không dựa vào đánh giá của một cơ quan nào và cũng không phục vụ lợi ích của nhóm.
Đây là lần đầu tiên một bảng xếp hạng tổng thể đại học Việt Nam được xây dựng và công bố bởi một nhóm chuyên gia độc lập với cơ quan quản lý nhà nước.
Tag:
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.