Năm 2003, ASEAN xác định mục tiêu chiến lược xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2020, dựa trên 3 trụ cột và năm 2007 đã quyết định rút ngắn thời gian hoàn thành AEC vào năm 2015 với các mục tiêu: (1) Tăng cường khả năng cạnh tranh và cải thiện môi trường đầu tư; (2) Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên và đạt được sự hội nhập kinh tế sâu hơn trong khu vực. AEC được xác định bởi các đặc trưng: Một thị trường duy nhất – một cơ cấu sản xuất chung – sự tự do di chuyển hàng hóa, dịch vụ, vốn đầu tư, doanh nhân và lực lượng lao động có kỹ năng.
Từ những thành tựu đã đạt được…
ASEAN đã đạt được những thành tựu vững chắc trong quá trình thực hiện các biện pháp cụ thể của Kế hoạch hành động AEC. Sau quá trình đàm phán và nỗ lực cải cách của khu vực và các thành viên, đến nay ASEAN đã loại bỏ gần như toàn bộ các dòng thuế giữa các nước phát triển hơn trong khu vực, đã ký kết Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN, Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN với các nước khác như: Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc, thông qua Kế hoạch Tổng thể kết nối ASEAN, thông qua Thỏa thuận đa phương hóa sáng kiến Chiềng Mai, thành lập Quỹ hạ tầng ASEAN.
Quá trình định hướng đến AEC vào năm 2015 đang được thực hiện vững chắc nhưng với tốc độ chậm, chính phủ các nước đang tiến hành những hành động ở cấp độ quốc gia cũng như ở cấp khu vực để khai thác tối đa những lợi ích của các sáng kiến hội nhập để có một vị thế vững vàng trước những biến động diễn ra của nền kinh tế toàn cầu. Cả 12 lĩnh vực thuộc AEC do các cơ quan chuyên ngành như: Tài chính, hải quan, GTVT, nông nghiệp, viễn thông, du lịch, khoa học – công nghệ, năng lượng – khoáng sản, hợp tác tiểu vùng… triển khai đều đạt kết quả quan trọng. Tính đến tháng 12/2014, ASEAN đã thực hiện được hơn 85% số biện pháp đề ra trong lộ xây dựng thành công AEC. Tuy nhiên, trong năm 2014, tốc độ cải cách theo cam kết đã chậm lại và không có những tiến triển đột phá vì quá trình cải cách đang đụng chạm đến những phần khó khăn hơn của chương trình cải cách, đặc biệt khi AEC đặt ra yêu cầu thay đổi pháp luật trong nước hoặc thậm chí là cả hiến pháp quốc gia. Khu vực ASEAN cũng cần cố gắng hơn nữa để giải quyết những rào cản đối với thương mại trong những lĩnh vực kinh tế nhạy cảm như nông nghiệp, sắt thép và ô tô, cũng như giảm bớt những rào cản phi thuế quan đang ngày càng thay thế những biện pháp thuế quan trong việc gây trở ngại đối với thương mại quốc tế.
Năm 2015 là giai đoạn đàm phán đặc biệt khó khăn đối với mỗi quốc gia thành viên để hoàn thành hơn 15% còn lại trong lộ trình xây dựng thành công Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Đặc biệt, trong giai đoạn này, toàn bộ khu vực và mỗi nước thành viên cần nỗ lực xây dựng chương trình riêng của mình và thông qua ASEAN để được chấp thuận. Chương trình đó bao gồm việc điều chỉnh các chính sách kinh tế, pháp luật trong nước, xây dựng lộ trình cụ thể về cắt giảm thuế quan… cho phù hợp với lộ trình chung hay đáp ứng các cam kết, ràng buộc với tổ chức cộng đồng.
Sự chuẩn bị hội nhập của các nước…
Ngay từ khi Kế hoạch AEC 2007 được công bố, các quốc gia đã khẩn trương chuẩn bị hội nhập. Sự ra đời của AEC vào năm 2015 sẽ là một bước ngoặt trong lịch sử hình thành và phát triển của ASEAN, đánh dấu sự hội nhập toàn diện các nền kinh tế Đông Nam Á.
Thái Lan: Nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nước này khi hội nhập vào năm 2015, Thái Lan đã và đang tiến hành các biện pháp đồng bộ nhằm hỗ trợ toàn diện ở mức cao nhất cho các doanh nghiệp của mình. Theo đó, các doanh nghiệp được cung cấp thông tin cụ thể và chi tiết các lĩnh vực xuất nhập khẩu các nước trong ASEAN, các thế mạnh và những điểm chưa khắc phục được của các đối tác mà doanh nghiệp Thái Lan sẽ cùng tiến hành kinh doanh khi ASEAN ngày càng trở thành một thị trường thống nhất. Bộ Công nghiệp nước này đã tiến hành tập tập huấn và đào tạo cho hơn 7.000 doanh nghiệp kinh doanh các lĩnh vực nội thất, may mặc, thực phẩm… về các kiến thức cơ bản trong cạnh tranh kinh doanh tại môi trường khi khối này hình thành AEC vào năm 2015. Kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp của Bộ Công nghiệp Thái Lan nằm trong chiến lược mà Thái Lan đang theo đuổi được chính phủ của Thủ tướng Dinh-lắc trước đây vạch ra nhằm đưa Thái Lan hội nhập toàn diện vào AEC vào năm 2015.
Bên cạnh đó, vai trò của chính phủ trung ương và địa phương trong quá trình chuẩn bị cho sự hội nhập AEC là rất quan trọng. Chính phủ Thái Lan có thể coi là một trường hợp điển hình của nỗ lực nắm bắt thời cơ của AEC. Chính phủ đã nghiêm túc và tôn trọng tiến trình hội nhập AEC. Tháng 11/2013, Thủ tướng Thái Lan đã chủ trì hội nghị đặc biệt với đại sứ Thái Lan ở các nước ASEAN, tỉnh trưởng các tỉnh giáp biên giới với Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma và đại diện các bộ ngoại giao, nội vụ, thương mại và công nghiệp… bàn định chính sách khai thác các lợi thế mà AEC mang lại sau năm 2015 để thúc đẩy thương mại, đầu tư và du lịch.
Việc chuẩn bị hội nhập AEC một cách toàn diện còn thể hiện ở việc Chính phủ Thái Lan yêu cầu các cán bộ ở các cơ quan công quyền phải học hai thứ tiếng, là tiếng Anh và một thứ tiếng trong ASEAN. Những nỗ lực vận động, tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân dân và doanh nghiệp về AEC ở Thái Lan đã mang lại nhiều dấu hiệu tích cực. Các doanh nghiệp trong nước chuẩn bị chu đáo hơn cho thời điểm hội nhập. Đồng thời, những doanh nghiệp lớn đã chủ động tiến sang các nước thành viên khác để chủ động đón thời cơ.
Ma-lai-xi-a: Để hướng tới sự hình thành AEC 2015, Ma-lai-xi-a khẳng định sẽ thực hiện phần lớn các biện pháp theo kế hoạch chi tiết của AEC vào năm 2015. Đến nay, Ma-lai-xi-a đã thực hiện khoảng hơn 88% các biện pháp theo kế hoạch chi tiết về AEC. Trong khi tỷ lệ thực hiện trung bình của các nước ASEAN đối với kế hoạch này chỉ ở mức 72%. Ưu tiên của Ma-lai-xi-a là xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan, sự di chuyển của lao động lành nghề, dịch vụ chuyên nghiệp và thúc đẩy đầu tư trong nội khối ASEAN. Do đó, Ma-lai-xi-a đã tổ chức một cuộc đối thoại không chính thức giữa Chính phủ và các doanh nghiệp với mục đích là nhằm thu nhập những phản hồi từ các bên liên quan về những sáng kiến hội nhập kinh tế khu vực và sự phát triển tiếp theo của ASEAN sau năm 2015.
In-đô-nê-si-a: In-đô-nê-si-a cho rằng, việc tăng cường hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng giữa các nước ASEAN là yếu tố tiên quyết trước khi hội nhập. Tuyến đường sắt xuyên Đông Nam Á sẽ được hoàn thành vào năm 2015, nối liền Xin-ga-po – Ma-lai-si-a – Thái Lan – Cam-pu-chia – Việt Nam – Trung Quốc (Côn Minh) là ví dụ tiêu biểu.
Động thái hướng tới AEC 2015 của In-đô-nê-si-a còn thể hiện ở việc nước này thành lập một Ủy ban để đảm bảo sự sẵn sàng cho AEC và đã giao nhiêm vụ này cho Bộ trưởng Điều phối Kinh tế Hát-ta Ra-gia-xa. Ủy ban sẽ bao gồm các đại diện khác nhau, gồm chính quyền trung ương và chính quyền các cấp cơ sở, doanh nhân, nghiệp đoàn lao động và các chuyên gia. Ngoài các nhiệm vụ khác, Ủy ban sẽ xác định những ngành công nghiệp vẫn còn cần thiết được tăng cường trước khi thực hiện AEC. Với hy vọng, AEC sẽ cải thiện nền kinh tế trong khu vực, bởi một nền kinh tế hội nhập có thể làm tăng tính luân chuyển của các dòng vốn, nguồn nhân lực, trao đổi hàng hóa và dịch vụ trong khu vực và In-đô-nê-xi-a có thể hưởng nhiều lợi ích từ một thị trường chung như vậy khi là nền kinh tế lớn nhất và đông dân nhất trong ASEAN. Tân Tổng thống Indonesia Joko Widodo còn xác định: “Indonesia sẽ tiếp tục cố gắng đảm nhiệm vai trò đi đầu trong ASEAN và thúc đẩy hơn nữa mục tiêu đoàn kết và trung tâm khu vực của ASEAN”.
Xin-ga-po: Là thành viên ASEAN duy nhất đã hoàn toàn sẵn sàng hội nhập AEC vào năm 2015. Nước này đã chuẩn bị tốt nhất cho AEC bởi vì trong một khoảng thời gian dài thành phố tự trị của họ đã là một cảng tự do chưa bao giờ phụ thuộc vào thuế quan. Xin-ga-po nhấn mạnh đến việc mở cửa thị trường chung ASEAN cần tập trung kết nối trên 3 phương diện: Trên đất liền, trên biển và kết nối không dây (in-tơ-nét), việc ASEAN kết nối thành một khối thống nhất sẽ tăng cường sức cạnh tranh của khu vực khi đàm phán các hiệp định hàng không với các cường quốc kinh tế lớn như Nhật Bản, Trung Quốc… hay các khu vực kinh tế lớn như EU…
Phi-líp-pin: Phòng Thương mại và Đầu tư Phi-líp-pin cho rằng, Chính phủ đã chuẩn bị sẵn sàng cho kế hoạch mở cửa. Từ nhiều năm nay, Phi-líp-pin đã đàm phán giảm bớt gánh nặng thuế quan trên hầu hết các mặt hàng và dịch vụ với các nước trong khối ASEAN, tiến dần mục tiêu thuế quan 0% năm 2015. Thứ trưởng Bộ Thương mại S. Crít-tô-ban khẳng định, đối với Phi-líp-pin việc thành lập AEC sẽ tạo ra nhiều cơ hội thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư nội khối ASEAN, đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh và sự mở rộng hoạt động kinh doanh của các công ty trong khu vực.
AEC ra đời vào năm 2015 sẽ tạo ra môi trường xuất nhập khẩu phi thuế quan, tức mở cửa thị trường trong nước cho khu vực. Các doanh nghiệp Phi-líp-pin hiểu rõ điều đó nên họ đều ra sức củng cố thị trường trong nước. Truyền thông về AEC, Chính phủ Phi-líp-pin đã thực hiện dự án “phủ sóng thông tin” về AEC. Chỉ trong năm 2013, 2014 đã có 140 hội thảo tổ chức theo chủ đề “Làm ăn trong khu vực tự do mậu dịch” với gần 13.000 doanh nghiệp tham dự. Bên cạnh đó, tổng cộng 15 hội nghị quy mô lớn được tổ chức riêng cho từng ngành, bao gồm đồ nhựa, đồ điện gia dụng, thực phảm, thiết kế nội thất hoặc các dịch vụ như giáo dục, du lịch, bảo hiểm… Hơn 23 chương trình huấn luyện dài hạn cũng được tổ chức, bao gồm cả việc phổ biến về những FTA khác với Nhật Bản, châu Âu, hay Hàn Quốc. Ông Gre-go-ry L.Dô-min-gô, Tổng Thư ký Phòng Thương mại và Đầu tư Phi-líp-pin cho biết, hiện hầu hết doanh nghiệp trong nước đều biết và ít nhiều chuẩn bị cho AEC. Chính phủ cũng ngồi lại với các doanh nghiệp dẫn đầu các ngành để thực hiện 24 bản kế hoạch phát triển dài hạn nhằm xác định các khoảng trống trong quản trị, nhân lực và chất lượng sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh. Đã có 12 bản kế hoạch được trình bày công khai trước cộng đồng để thu thập ý kiến. Điều quan trọng nhất trong quá trình chuẩn bị của Phi-líp-pin chính là sự tham gia chủ động của chính phủ. Dù doanh nghiệp có cố gắng đến đâu, nếu thiếu sự hỗ trợ từ chính phủ thì các nỗ lực đó cũng khó mà đạt hiệu quả cao nhất.
Cam-pu-chia: Theo Trưởng Văn phòng Hội nhập Kinh tế khu vực của ADB, Giây-an Mê-non: Mặc dù Cam-pu-chia là một trong 4 nước Tiểu vùng sông Mê Công (CLMV) có sự chuẩn bị hội nhập AEC kém hơn so với Thái Lan, Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a, nhưng xét về tổng thể những động thái chuẩn bị cho hội nhập AEC vào năm 2015, Cam-pu-chia vẫn vượt Lào và Mi-an-ma. Cam-pu-chia tập trung phát triển chính sách thương mại mở cửa để thu hút đầu tư, nới lỏng luật đầu tư và luật sở hữu, đồng thời tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao. Tuy nhiên, ông này khuyến cáo Cam-pu-chia cần đẩy nhanh cải cách hải quan và đẩy mạnh quá trình tự động hóa để giảm chi phí thương mại, giảm thiểu tham nhũng và sẵn sàng cho việc trao đổi hải quan một cửa vào năm 2015.
Lào: Lào đang thực hiện chủ trương “Thu hẹp khoảng cách và phát triển theo hướng hội nhập ASEAN (LPP)”. Để đẩy nhanh tiến trình chuẩn bị hội nhập AEC của các doanh nghiệp quốc doanh và tư doanh, Chính phủ Lào đã thông qua các hội thảo để nâng cao nhận thức ASEAN và tập trung vào những mục tiêu quan trọng như cải thiện các quy chế, phát triển nguồn nhân lực cùng hệ thống quản lý tài chính, nâng cao tiêu chuẩn và chất lượng sản xuất hàng hóa. Tổng giám đốc Sở ASEAN thuộc Bộ Ngoại giao Lào, ông Phan-xô-ri-vông cho hay: “Khả năng cạnh tranh của Lào với các nước thuộc khu vực ASEAN vẫn còn thấp. Cơ sở hạ tầng, GTVT và dịch vụ chưa phát triển cùng hệ thống ngân hàng còn nhiều thiếu sót có thế đặt Lào vào thế bất lợi”.
Mi-an-ma: Mi-an-ma đã từng là một nền kinh tế lớn của khu vực, sau một thời gian khá dài đóng cửa nay lại trở thành một thị trường mới nổi, hấp dẫn các nhà đầu tư. Tuy nhiên, để nắm bắt những cơ hội mà AEC mang lại thì Chính phủ Mi-an-ma cần phải tiến hành triệt để hàng loạt chính sách nhằm khắc phục tình trạng cơ sở hạ tầng yếu và thiếu, môi trường chính trị chưa thật sự ổn định.
Theo Báo cáo Cập nhật kinh tế năm 2014 của Ngân hàng châu Á (ADB) thì các nước Bru-nây, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Xin-ga-po và Thái Lan đã đạt hiệu quả trong việc giảm mức thuế suất xuống gần bằng 0% và hiện đang sẵn sàng giới thiệu thủ tục hải quan mới, gọi là cơ chế Một cửa ASEAN vào năm 2015. Các nước còn lại tuy có một số khó khăn nhưng cũng đang tích cực để hoàn thành kế hoặc hội nhập AEC đúng tiến độ vào ngày 31/12/2015.
Và cơ hội, thách thức với Việt Nam
Về cơ hội: Cộng đồng Kinh tế ASEAN ra đời sẽ mở ra cơ hội đối với nền kinh tế của Việt Nam trên 6 lợi thế cơ bản:
Thứ nhất, thúc đẩy trao đổi thương mại, tăng quy mô thương mai nội khối và các bên đối tác. Do thuế suất được cam kết về 0%, chi phí hàng xuất nhập khẩu sẽ giảm, điều này sẽ kích thích tiêu dùng, tăng chất lượng sản phẩm và tăng tính cạnh tranh của hàng hóa. Khi không còn rào cản thương mại, quy mô buôn bán sẽ tăng, người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi. Với thương mại dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ vận tải và dịch vụ du lịch sẽ tăng mạnh, đây là cơ hội lớn cho cả kinh doanh và người tiêu dùng của Việt Nam.
Thứ hai, tăng cường thu hút FDI. Các nước ASEAN không ngừng cải thiện môi trường thu hút FDI cho cộng đồng AEC và từng thành viên. Trên thực tế, môi trường FDI chung của ASEAN vẫn còn rời rạc, tính liên kết vẫn còn lỏng lẻo. Tính cạnh tranh trong việc thu hút FDI ở các nước ASEAN có sự hấp dẫn khác nhau vì mỗi nước có một lợi thế cạnh tranh riêng; do vậy, từng nước đang có một môi trường thu hút FDI riêng. Với việc hình thành AEC, những ưu đãi về tự do di chuyển vốn sẽ gia tăng đầu tư lẫn nhau giữa các nước trong nội khối. Đồng thời, với một thị trường rộng lớn, với một môi trường FDI của các nước ngày càng được cải thiện trong tiến trình để hình thành một môi trường đầu tư chung, việc thu hút đầu tư sẽ có tính cạnh tranh cho toàn khu vực và Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ đó.
Thứ ba, tạo cơ hội tìm kiếm việc làm để cải thiện thu nhập. Một số nước như Xin-ga-po và Ma-lai-xi-a là những nước trong khu vực luôn có nhu cầu cao về lao động phổ thông. Khi AEC thành lập, thị trường lao động tự do hơn, các thủ tục được tối giản, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu lao động vào các thị trường trên. Ngoài ra, người lao động Việt Nam cũng có thêm cơ hội tìm kiếm việc làm và việc làm có thu nhập cao nhờ việc mở cửa các doanh nghiệp mới, tăng quy mô và chất lượng cung cấp các dịch vụ như vận tải, lưu trú và các dịch vụ thương mại khác đáp ứng nhu cầu của du khách quốc tế sẽ tăng lên.
Thứ tư, tác động của AEC tới tăng trưởng xuất khẩu. ASEAN hiện là đối tác hàng đầu của Việt Nam và là động lực giúp nền kinh tế Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng và xuất khẩu. Trong vòng 10 năm (2002 – 2012), thương mại hai chiều Việt Nam và ASEAN tăng hơn 5 lần đạt 37,84 tỷ USD, tương đương 16,6% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN tăng từ 2,43 tỷ USD đến 17,08 tỷ USD. Đối với nhập từ các nước ASEAN, kể từ năm 2007 đến nay, Việt Nam nhập một lượng lớn các nguyên phụ liệu từ các nước này và đạt mức kim ngạch khá đều qua các năm, khoảng 20 tỷ USD/năm. Ngoài ra, các hiệp định AEC và ASEAN+ cũng sẽ giúp ổn định nguồn nhập khẩu và hạ giá đầu vào nhập khẩu. Do nhập khẩu thường xuyên chiếm tới 80% GDP nên việc ổn định nguồn nhập khẩu và hạ giá đầu vào nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với việc duy trì tăng trưởng kinh tế nói chung và tăng trưởng xuất khẩu nói riêng.
Thứ năm, tác động tới việc mở rộng thị phần và thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo chiều hướng tích cực với thị trường AEC sẽ có quy mô lớn với hơn 600 triệu dân. Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam có điều kiện tốt để dịch chuyển tích cực hơn; chuyển dịch và thay thế dần các mặt hàng có lượng chế tác thấp (như các mặt hàng nông sản) sang mặt hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp, nông sản chế biến, mỹ phẩm có giá trị cao và ổn định. Trong khi đó, việc hình thành AEC sẽ giúp Việt Nam có thể mở rộng thị phần các hàng hóa của mình trên các thị trường như ASEAN, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Thứ sáu, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Các quan hệ được phát triển về lợi ích thương mại chiến lược tạo điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo mục tiêu mong đợi, đặc biệt các ngành, các lĩnh vực có lợi thế trong AEC có điều kiện để mở rộng. Quá trình phát triển quan hệ trong AEC là cách thức để cải thiện vị trí tổng thể Việt Nam trong AEC để đưa Việt Nam trở thành một quốc gia công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và trụ cột có trách nhiệm cũng như đối tác tin cậy trong ASEAN về chính trị – an ninh, văn hóa – xã hội và kinh tế, tài chính, thị trường…
Về thách thức: Để có thể tận dụng được các cơ hội sau khi gia nhập AEC, Việt Nam cần nhận rõ các thách thức từ việc gia nhập AEC để có các điều chỉnh chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách kinh tế – xã hội và các thể chế kinh tế thị trường cho phù hợp:
Một là, khi tham gia AEC sẽ ảnh hưởng đến quyền tự quyết của Việt Nam trong một số chính sách kinh tế, nhất là khi AEC có thể trở thành một liên minh thuế quan hay thị trường chung ASEAN trong tương lai.
Hai là, Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh lớn hơn từ các nền kinh tế khác trong diều kiện không cân sức, có thể gây ra một số khó khăn thiệt hại cho nền kinh tế khi quy mô nền kinh tế Việt Nam còn nhỏ bé và năng lực cạnh tranh chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, chênh lệch giữa Việt Nam với các nước ASEAN-6 vẫn còn khoảng cách lớn.
Ba là, sự chênh lệch phát triển thể hiện ở quy mô vốn của cả nền kinh tế và các doanh nghiệp, trình độ khoa học công nghệ và tay nghề lao động khiến cho nền kinh tế Việt Nam có sức cạnh tranh kém và tình trạng trì trệ trong quá trình mở cửa cạnh tranh với các nền kinh tế trong khu vực.
Như vậy, thời hạn cán đích cho việc ra đời AEC ngày 31/12/2015 chỉ còn được tính bằng tháng. 6/10 thành viên đã có tỷ lệ công việc hoàn thành ở mức cao, 4/10 nước còn lại vấn đề khoảng cách vẫn cần được quan tâm. Việt Nam luôn là thành viên tích cực, có trách nhiệm đối với Cộng đồng, đang chủ động nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, theo giới phân tích, sau khi AEC ra đời, Việt Nam có thể gặp khó khăn trong giai đoạn đầu, nhưng về trung và dài hạn sẽ mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội hơn để hội nhập phát triển kinh tế đất nước.
Nguyễn Nhâm
Tag:
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.