Công nghiệp 4.0 “chạm ngõ” ngành Hàng hải
Có thể nói, so với những “người anh em” khác trong ngành GTVT, do tính chất đặc thù của ngành, hàng hải được xem là “hội nhập” rất sớm với quốc tế, ứng dụng những khoa học công nghệ (KHCN) hiện đại, tiên tiến. Trong một khoảng thời gian dài, ngành Hàng hải đã tập trung đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng KHCN trong định hướng phát triển của Ngành, tạo điều kiện ưu tiên cho một số lĩnh vực có khả năng, tiềm lực, đưa một số lĩnh vực đạt trình độ ngang tầm quốc tế. Từ những định hướng trọng tâm đó, KHCN đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy ngành Hàng hải Việt Nam (HHVN) phát triển.
Theo Cục HHVN, năm 2017 Cục đã tăng cường ứng dụng công nghệ vào công tác quản lý, điều hành. Trong đó, Cục đã tích cực triển khai Cơ chế một cửa quốc gia tại 9 khu vực cảng biển là Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh, Nha Trang, Quy Nhơn, Quảng Ngãi và Đồng Nai. Cụ thể, Cục duy trì cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 đối với 3 thủ tục hành chính cho tàu thuyền Việt Nam và tàu thuyền nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh và quá cảnh. Tổng số hồ sơ điện tử được tiếp nhận, phê duyệt cho tàu thuyền tại 9 cảng vụ hàng hải từ ngày 01/01/2017 đến ngày 30/11/2017 là 36.189 hồ sơ, trong đó có 6.395 hồ sơ được cấp giấy phép điện tử - ký số.
“Để tạo điều kiện cho người làm thủ tục theo phương thức điện tử, Cục HHVN đã chủ động xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử về tàu biển, thuyền viên và đề xuất Bộ GTVT quy định việc sử dụng dữ liệu điện tử về tàu thuyền, thuyền viên của Cục HHVN, Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, Cục Đăng kiểm Việt Nam để kiểm tra, đối chiếu khi xử lý thủ tục cho tàu thuyền Việt Nam, không yêu cầu người làm thủ tục phải xuất trình giấy tờ bản chính tại địa điểm làm thủ tục. Việc ứng dụng công nghệ thông tin này giúp rút ngắn thời gian làm thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động hàng hải, cải cách này được nhiều doanh nghiệp ghi nhận và đánh giá cao”, Cục trưởng Cục HHVN Nguyễn Xuân Sang chia sẻ.
Đồng thời, Cục HHVN còn thực hiện thủ tục điện tử đối với tàu biển Việt Nam hoạt động tuyến nội địa vào, rời cảng biển tại toàn bộ khu vực cảng biển Việt Nam, bao gồm 25 cảng vụ hàng hải; triển khai thực hiện ký số giấy phép điện tử cho tàu thuyền vào, rời cảng biển khi thực hiện thủ tục điện tử trên Cổng Thông tin một cửa Quốc gia từ ngày 01/8/2017.
Đối với nhóm thủ tục hành chính quản lý thuyền viên, Cục duy trì cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4. Tổng số hồ sơ điện tử được các cơ quan đăng ký thuyền viên tiếp nhận, phê duyệt là 2.380 hồ sơ. Ngoài ra, Cục đã xây dựng và trình Bộ GTVT hồ sơ đề xuất cấp độ an toàn thông tin đối với Hệ thống thông tin của Cục HHVN; triển khai kiểm tra, đánh giá an toàn thông tin tổng thể Hệ thống công nghệ thông tin, Trang Thông tin điện tử và ứng dụng thư điện tử của Cục; triển khai nâng cấp đưa vào sử dụng phần mềm đăng ký tàu biển và phần mềm quản lý thuyền viên từ ngày 01/7/2017.
Các dịch vụ công thông minh được tự động hóa toàn diện, đã và đang được thực hiện tại lĩnh vực hàng hải để phục vụ người dân. Tất cả các yếu tố “tự động hóa” thông minh phục vụ phát triển hàng hải nói riêng và ngành GTVT nói chung đều là khởi điểm của kỷ nguyên 4.0.
Đẩy mạnh làm chủ công nghệ
Trước những cơ hội và thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, dưới sự chỉ đạo của Bộ GTVT, Cục HHVN đã xây dựng chương trình tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng này. Thời gian tới, Cục sẽ tập trung thúc đẩy phát triển, tạo sự bứt phá thực sự về hạ tầng, ứng dụng công nghệ thông tin và nhân lực công nghệ thông tin, tăng cường ứng dụng công nghệ số và tiếp tục nâng cao, cải tiến các dịch vụ công.
Đồng thời, để tiếp tục phát triển hội nhập, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế đất nước, tạo tiền đề cho việc đổi mới và hiện đại hóa công nghệ của ngành Hàng hải, Cục HHVN xác định ứng dụng công nghệ số là khâu then chốt thúc đẩy Ngành phát triển, đạt trình độ KHCN khu vực và thế giới.
Cụ thể, Cục tiếp tục nghiên cứu, làm chủ công nghệ khảo sát thiết kế các công trình giao thông, đảm bảo chất lượng kỹ thuật, mỹ thuật cao, an toàn, bền vững, đảm bảo hiệu quả kinh tế - kỹ thuật và phù hợp với đặc điểm địa hình, địa chất, khí hậu, thủy văn các vùng miền của Việt Nam; làm chủ các công nghệ, phần mềm khảo sát thiết kế mạnh để khảo sát, thiết kế xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông thuộc cảng biển; hoàn thiện công nghệ thiết kế, phân tích kết cấu công trình giao thông phức tạp chịu tải trọng gió, động đất, thiết kế hệ thống quan trắc, hệ thống giao thông thông minh...
Hoàn thiện công nghệ chống sụt trượt và kiên cố hóa công trình giao thông; ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; làm chủ công nghệ xây dựng công trình giao thông như cảng nước sâu, công trình sử dụng vật liệu và công nghệ mới...; tập trung đầu tư công nghệ xây dựng cảng biển hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng sau cảng.
Nghiên cứu ứng dụng KHCN đồng bộ từ khâu tổ chức, đào tạo, làm chủ các công nghệ, thiết bị thí nghiệm, phục vụ kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng công trình, kiểm định công trình; nghiên cứu ứng dụng KHCN tiên tiến vào quản lý, khai thác và bảo trì khai thác cảng biển, đặc biệt là các cảng biển nước sâu, cảng biển quốc tế.
Ứng dụng KHCN tiên tiến phục vụ vận hành và khai thác cảng biển, đặc biệt là các cảng cửa ngõ quốc tế theo mô hình cảng xanh, giảm thiểu ô nhiễm đối với khu vực và thân thiện với môi trường; ứng dụng KHCN trong việc quản lý và cấp phép tàu thuyền ra, vào cảng; hiện đại hóa trang thiết bị phục vụ công tác quản lý, giám sát hoạt động hàng hải: Nâng cấp hạ tầng kỹ thuật hệ thống Đài Thông tin Duyên hải Việt Nam, hiện đại hóa hệ thống báo hiệu hàng hải lắp đặt hệ thống nhận dạng tự động (AIS), tiêu ra-đa (RACON) trên hệ thống các đèn biển, lắp đặt phản xạ ra-đa chủ động (RTE)...; hiện đại hóa hệ thống các đài thông tin duyên hải, ứng dụng công nghệ thông tin vệ tinh, thiết lập hệ thống nhận dạng và truy xuất tàu theo tầm xa (LRIT) và Đài Thông tin vệ tinh Cospas-Sarsat thế hệ mới MEOSAR; ứng dụng hệ thống AIS vào quản lý và theo dõi tàu thuyền hoạt động trên biển, kết nối với các hệ thống thông tin khác như LRIT, VTS phục vụ khai thác, điều hành, kiểm soát và quản lý các phương tiện hoạt động trên biển đồng bộ tại các cảng biển quan trọng; thiết lập bình đồ luồng hàng hải điện tử, ứng dụng hải đồ điện tử và hệ thống giám sát báo hiệu hàng hải từ xa; xây dựng mới các hệ thống quản lý giao thông hàng hải (VTS) trên các luồng có mật độ vận tải lớn; phát triển hệ thống AIS đài bờ, AIS vệ tinh; thiết lập các phao thu thập thông tin thời tiết để kịp thời cảnh báo đối với hiện tượng sóng thần và nước biển dâng tại khu vực cảng biển
Tag:
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.