Thế giới đang trên “đường đua” mới về “áp dụng chuyển đổi số” bởi vì chuyển đổi số đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc gia tăng hiệu quả hoạt động, đảm bảo an ninh quốc gia, ảnh hưởng lớn tới khả năng tăng trưởng GDP. Theo đó, lĩnh vực giao thông hàng hải cũng đang chuyển dịch theo xu thế này. Để cung cấp cái nhìn toàn diện về chuyển đổi số trong lĩnh vực hàng hải hiện nay, trong bài báo này, tác giả sẽ đi phân tích chuyên sâu về điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với hoạt động chuyển đổi số trong hàng hải Việt Nam, từ đó có căn cứ đề xuất một số giải pháp phát huy ưu điểm và khắc phục hạn chế, thách thức nhằm nâng cao ATGT hàng hải trên các vùng biển Việt Nam.
Trong những năm gần đây, các công ty trong hầu hết các ngành công nghiệp đã tiến hành một số sáng kiến để khám phá các công nghệ kỹ thuật số mới và khai thác các lợi ích của chúng [1]. Điều này thường liên quan đến việc hình thành các hoạt động kinh doanh chính và ảnh hưởng đến các sản phẩm, dịch vụ và quy trình, cũng như cơ cấu tổ chức và quy trình quản lý [2]. Chuyển đổi số (Digital transformation - DT) gây ra những thay đổi cơ bản trong hoạt động kinh doanh truyền thống bằng cách triển khai và sử dụng công nghệ kỹ thuật số vào thực tiễn [3]. Nó vượt qua những thay đổi của quy trình kinh doanh và cho phép tạo ra các loại tổ chức mới, mang lại những thay đổi trong văn hóa tổ chức, các mối quan hệ, tạo ra giá trị và tiếp cận khách hàng, cũng như vị thế trên thị trường [4]. DT đề cập đến những thay đổi của tổ chức, do công nghệ số tạo ra, dẫn đến việc xác định lại các khả năng, quy trình và mối quan hệ đơn vị hiện có [5]. Những thay đổi có thể quan sát được như mô hình hoạt động, cách thức tổ chức, hoạt động phân phối và nắm bắt giá trị [6].
Chuyển đổi số có thể được định nghĩa là quá trình định hình lại các mô hình hoạt động thông qua việc áp dụng các công nghệ kỹ thuật số với mục đích tạo ra sự thiết lập môi trường tổ chức, trong đó các khả năng mới về kỹ thuật số được kích hoạt và giá trị được tạo ra. Tích hợp và khai thác các công nghệ kỹ thuật số mới là một trong những thách thức lớn nhất mà các đơn vị đang phải đối mặt. Vận tải biển là phương thức vận tải quan trọng trong thương mại quốc tế đang tiến tới số hóa và DT ở các tốc độ khác nhau trong phạm vi khác nhau. Vận tải biển là một phần của chuỗi vận tải đa phương thức, ảnh hưởng của nhiều yếu tố như biến động giá năng lượng, công nghệ chưa hoàn thiện và các quy định của Tổ chức Hàng hải quốc tế (International Maritime Organization - IMO) ngày càng tăng. Các tổ chức, cá nhân tham gia vào các hoạt động trong lĩnh vực vận tải biển, cũng như nhiều doanh nghiệp trong các ngành khác đang thiếu các kiến thức về chiến lược, cũng như các sáng kiến đúng đắn để thực hiện chuyển đổi số thành công.
Hiện nay, các nghiên cứu khoa học về chuyển đổi số trong lĩnh vực hàng hải còn hạn chế. Có vài nghiên cứu tập trung vào phân tích dịch vụ do IMO khởi sướng theo chương trình e-navigation. Sự thiếu hụt các nghiên cứu và bài báo khoa học cung cấp một cái nhìn tổng thể về chuyển đổi trong lĩnh vực hàng hải là đặc biệt rõ rệt. Để khắc phục khoảng trống nghiên cứu này và để hiểu rõ hơn về DT trong lĩnh vực hàng hải tại Việt Nam, nhóm tác giả đã tiến hành thực hiện nghiên cứu này. Kết quả nghiên cứu được kỳ vọng là cơ sở để xác định mục tiêu chiến lược và hướng chuyển đổi số đối với ngành Hàng hải.
Thực trạng chuyển đổi số trong ngành Hàng hải
* Thực trạng về chuyển đổi số trong ngành Hàng hải trên thế giới:
Số hóa chủ yếu tập trung vào tự động hóa quy trình kinh doanh, tự động hóa hoạt động, cũng như xử lý thông tin. Mặt khác, chuyển đổi số hiện là một xu hướng quan trọng xâm nhập vào nhiều lĩnh vực công nghiệp và xã hội. Chỉ một số ít các đơn vị trong lĩnh vực vận tải biển cho rằng số hóa đã thay đổi đáng kể hoạt động của họ, trong khi các công ty trong lĩnh vực công nghệ cao và vận tải công cộng đã có những thay đổi lớn hơn trước yêu cầu về xây dựng quy trình hoạt động. Tính hiện đại của số hóa trong giao thông hàng hải đã được xác minh và số hóa hiện đang áp dụng cho 8 lĩnh vực kỹ thuật số: “tàu tự động và tàu không người; trí tuệ nhân tạo; dữ liệu lớn; thực tế ảo, thực tế tăng cường và hỗn hợp; Internet vạn vật; điện toán đám mây; bảo mật kỹ thuật số; in 3D”. Tuy nhiên, có những lĩnh vực mà hầu như chưa có nghiên cứu chính thức nào được thực hiện cho đến nay và kết luận rằng có những lĩnh vực chính cần được chú ý về mặt nghiên cứu như việc sử dụng dữ liệu lớn trong các dịch vụ hàng hải và tích hợp trí tuệ nhân tạo trong các nghiên cứu được thực hiện trong ngành.
Fruth và Teuteberg (2017) đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về hiện trạng số hóa trong ngành Hàng hải và thảo luận về các vấn đề hiện nay như thiếu các nghiên cứu lý thuyết để xem xét chi tiết hơn hành vi tương lai của các bên trong chuỗi hoạt động hàng hải. Từ đó, cho thấy các tiềm năng để cải thiện như bằng cách mở rộng nghiên cứu sang các lĩnh vực mà các dự án thông tin và Dữ liệu lớn đã được triển khai. Sự phổ biến của số hóa trong vận tải biển được thể hiện rõ nét nhất trong khái niệm e-navigation và những phát triển đang diễn ra trong lĩnh vực hàng hải nói chung [7].
Các công ty vận tải biển đánh giá tầm quan trọng của số hóa đối với ngành công nghiệp của họ theo như sau: 15% coi sự thay đổi triệt để của ngành là không thể tránh khỏi, trong khi 69% cảm thấy rằng sẽ có những thay đổi đáng kể nhưng không có cuộc cách mạng trong ngành, trong khi 16% cho rằng chủ đề này được đánh giá cao [8]. Theo khảo sát của PwC Na Uy (2017): “Chuyển đổi số được thiết lập để đóng một vai trò quan trọng trong vận tải biển và cho các công ty vận tải biển trong tương lai và ngành Hàng hải hiện đang đón đầu các quy trình số hóa rộng rãi với mức độ chắc chắn cao” [9]. Tàu biển với thuyền bộ sẽ còn gắn liền với nhau trong hoạt động vận tải trong tương lai, nhưng một số công ty vận tải biển của Na Uy và Hy Lạp đang dần cởi mở với ý tưởng về các con tàu được điều khiển từ đất liền”. Các động lực chính của chuyển đổi số là ý định giảm chi phí, quy định quá mức trong ngành Hàng hải và số lượng lớn dữ liệu mà các công ty hàng hải xử lý, cùng với ý định tăng hiệu quả kinh doanh. Ngược lại, các rào cản chính đối với chuyển đổi số là chi phí triển khai cao, chất lượng kết nối Internet ra nước ngoài thấp, người ra quyết định ở thế hệ cũ, văn hóa thiên về công nghệ quá mức, thiếu các sáng kiến đầu tư, mức độ phổ biến của công nghệ kỹ thuật số hiện đại thấp.
Cảng biển đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động hàng hải và là đầu mối quan trọng trong giao thương quốc tế. Heilig và cộng sự (2017) đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về sự phát triển và hiện đại của DT trong các cảng biển hiện đại nhằm xác định các tiềm năng và rào cản chuyển đổi số hiện tại [10]. Ở các cảng biển, xác định chuyển đổi số với 3 nội dung chính: Chuyển đổi sang Thủ tục không cần giấy tờ; Chuyển đổi sang Quy trình tự động; Chuyển đổi sang Quy trình thông minh và phân tích các giai đoạn của chuyển đổi số tương ứng.
Môi trường kinh doanh mới đòi hỏi ngành vận tải biển phải chuyển từ mô hình kinh doanh truyền thống về năng lực bán hàng sang mô hình kinh doanh mang lại giá trị cho khách hàng. Với nhu cầu ngày càng tăng của chuỗi cung ứng toàn cầu về dòng chảy hàng hóa và dịch vụ liền mạch, kinh doanh kỹ thuật số là một yếu tố thúc đẩy quan trọng đối với các công ty vận tải biển ngày nay. Các công nghệ như Internet vạn vật (Internet of things - IoT), Dữ liệu lớn, Trí tuệ nhân tạo (Artificielle Intelligence - AI), Giao diện lập trình ứng dụng (Application Programming Interface - API) và cảm biến, cùng với lượng lớn dữ liệu hiện có đang được sử dụng để tối ưu hóa hoạt động, nâng cao hiệu quả, giảm chi phí và tăng thời gian hoạt động của tàu. Việc thực hiện những đổi mới này sẽ đòi hỏi những thay đổi trong mô hình hoạt động, sử dụng dữ liệu được sản xuất, an ninh mạng cũng như vai trò của con tàu để tạo ra các giá trị.
Các công nghệ và công cụ kỹ thuật số sẽ chuyển đổi vai trò của các con tàu từ một cơ chế trung tâm thành một yếu tố thúc đẩy tạo ra giá trị. Những công cụ này sẽ tạo ra các mạng lưới thông minh rộng hơn, được kết nối nhiều hơn và sẽ cung cấp khả năng giám sát hoạt động cũng như khả năng hiển thị theo thời gian thực của các tàu. Năm 2006, Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO) bắt đầu phát triển khái niệm về e-navigation: “E-navigation là sự thu thập, tích hợp, trao đổi, biểu thị và phân tích thông tin hải sự trên tàu và trên bờ được làm hài hòa bằng phương pháp điện tử nhằm nâng cao hàng hải từ cầu cảng đến cầu cảng và các dịch vụ liên quan đảm bảo an toàn, an ninh trên biển và bảo vệ môi trường biển”. Trải qua hơn 15 năm, chúng ta đã và đang chứng kiến những hoạt động quan trọng về e-navigation, đặc biệt về chuỗi cung ứng, kinh tế và môi truwờng điều khiển [11].
Trong nghiên cứu của PGS. TS. Nguyễn Mạnh Cường và TS. Phan Văn Hưng (2021) đã chỉ ra các lợi ích mà e-navigation mang lại như: giúp cải thiện an toàn thông qua việc thúc đẩy các tiêu chuẩn về an toàn hàng hải; môi trường được bảo vệ tốt hơn; giúp tăng cường an ninh trong hoạt động hàng hải; nâng cao hiệu quả khai thác tàu và giảm giá cước vận tải; nâng cao quản lý nguồn nhân lực [12].
Trong vài năm trở lại đây, đã có nhiều quốc gia triển khai các dịch vụ e-navigation như chương trình SMART- Navigation Project tại Hàn Quốc (Hình 1), liên minh e-navigation tại tuyến luồng Singapore và Malaca, Smart MCP tại Đan Mạnh, Navelink tại Thụy Điển, Mỹ, Úc, Đức, Nhật Bản.
SMART-Navigation với các tính năng đặc biệt: (1) dịch vụ cho các tàu không thuộc Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng con người trên biển (International Convention for the Safety of Life at Sea - SOLAS) và (2) truyền thông băng thông rộng sử dụng mạng hàng hải tiến hóa dài hạn (Long Term Evolution maritime: LTE-Maritime) để kết nối tốt hơn giữa tàu và bờ. Cơ quan Đăng kiểm Hàn Quốc và Công ty Hàng hải là những người đã đảm nhận vai trò của tiêu chuẩn hóa dữ liệu để thành lập đặc điểm kỹ thuật cho dịch vụ SMART-Navigation do nhà phát triển dịch vụ thực hiện. Sản phẩm cụ thể SMART-Navigation là đặc điểm sản phẩm được phát triển để tiêu chuẩn hóa việc trao đổi dữ liệu trong hệ thống. SMART-Navigation được thiết kế để đảm bảo chất lượng cao của dữ liệu trao đổi giữa tàu và bờ.
SMART-navigation có tác động mạnh trong việc giảm thiểu tai nạn, được đánh giá dựa trên kết quả phân tích các vụ tai nạn. Dự kiến sẽ giảm hơn 56,6% tổng số vụ tai nạn của 3.366 tàu, bao gồm 13% tàu SOLAS và 43,6% tàu không thuộc SOLAS, bao gồm cả tàu cá. Trong trường hợp tai nạn hàng hải, hơn 33,9%, bao gồm 14,8% đối với tàu không đánh cá và 19,1% đối với tàu cá, dự kiến sẽ giảm. Ngay cả những vụ tai nạn hàng hải cũng được dự báo sẽ giảm tới 22,7%, bao gồm 6,2% đối với tàu không đánh bắt và 16,5% đối với tàu cá. Xét về nguyên nhân trực tiếp, dự kiến giảm 50,2% số vụ tai nạn do lỗi con người, giảm 5,4% số vụ tai nạn do lỗi kỹ thuật và 1% số vụ tai nạn do yếu tố bên ngoài [13].
* Thực trạng chuyển đổi số trong ngành Hàng hải Việt Nam:
Chuyển đổi số trong ngành Hàng hải Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định như tỉ lệ các doanh nghiệp logistics ứng dụng công nghệ khác nhau vào hoạt động của mình nên đến 50 - 60%. Trong đó, phải kể đến sự thành công của một số mô hình như Công ty Tân Cảng Sài Gòn, sau khi áp dụng thành công các chương trình quản lý, điều hành sản xuất tiên tiến, công ty đã kéo giảm 55% thời gian tàu nằm bến; giảm 3/4 thời gian giao nhận hàng hóa; giảm 60% các vụ việc mất an toàn lao động, ATGT [14].
Từ năm 2013, Cục Hàng hải Việt Nam đã xây dựng và đưa vào sử dụng phần mềm trao đổi, theo dõi thông tin kiểm tra tàu biển với các cảng vụ. Từ tháng 12/2015, Cục đưa phần mềm cung cấp thông tin cập nhật về bình đồ luồng hàng hải điện tử (ENC) của 43 tuyến luồng hàng hải. Hệ thống đã giúp người đi biển và cơ quan quản lý nhà nước cập nhật thông tin về bình đồ luồng hàng hải, thông báo hàng hải và hệ thống đèn biển dễ dàng, thuận tiện.
Năm 2016, Cục Hàng hải tiếp tục xây dựng, đưa vào sử dụng phần mềm “Ứng dụng phổ biến thông tin hàng hải trên thiết bị thông tin di động” để tuyên truyền thông tin về tàu biển, thuyền viên, luồng hàng hải đến người dân và doanh nghiệp.
Ngành Hàng hải đã thực hiện Cơ chế Một cửa Quốc gia ngay từ giai đoạn 1 (2014). Tháng 7/2018, Cục Hàng hải Việt Nam tiếp tục triển khai mở rộng Cơ chế Một cửa Quốc gia đối với 11 thủ tục hành chính lĩnh vực hàng hải trên Cổng Thông tin một cửa Quốc gia tại 25 cảng vụ hàng hải, tiến tới xây dựng kiến trúc Chính phủ điện tử Bộ GTVT trong lĩnh vực hàng hải. Trong đó, tập trung vào xây dựng, nâng cấp cơ sở dữ liệu chuyên ngành hàng hải, sẵn sàng kết nối, chia sẻ thông tin với các cơ sở dữ liệu nền tảng dùng chung của Bộ GTVT.
Các hệ thống phân luồng giao thông hàng hải đã và đang được xây dựng phát triển theo tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là các vùng trọng điểm nơi giao thoa của nhiều tuyến hàng hải, mật độ giao thông cao và phức tạp. Trong đó, các thiết bị hỗ trợ trên các hệ thống phân luồng được tăng cường các thiết bị hỗ trợ hiện đại theo hướng số hóa.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được nhóm tác giả sử dụng trong nghiên cứu này là sự kết hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp tổng hợp thống kê các công trình nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế;
- Phương pháp tư vấn chuyên gia;
- Phương pháp phân tích ma trận điểm mạnh - điểm yếu - cơ hội - thách thức (Strengths - Weaknesses - Opportunities - Threats: SWOT).
Phân tích ma trận swot trong chuyển đổi số nhằm nâng cao an toàn hàng hải
* Điểm mạnh - thuận lợi của chuyển đổi số trong ngành Hàng hải (S):
Thứ nhất, thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, ưu tiên phát triển các ngành kinh tế biển, nhất là kinh tế hàng hải, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ, cơ cấu lại các ngành Hàng hải Việt Nam đang có nhiều điều kiện thuận lợi được xây dựng từ các cơ chế chính sách mới, gắn với ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào hoạt động của ngành [15]. Cùng với đó là Nghị quyết số 36/NQ/TW ngày 01/7/2014 về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế [16].
Thứ hai, Chính phủ quyết tâm triển khai chương trình chuyển đổi số quốc gia nhằm mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu. Điều này được thể hiện rõ trong Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Chính phủ chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế số nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Cụ thể, đến năm 2025, kinh tế số chiếm 20% GDP; phấn đấu thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về công nghệ thông tin (IDI), thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh tranh (GCI), thuộc nhóm 35 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (GII). Chủ trương chuyển đổi số quốc gia sẽ là nền tảng, cơ sở vững chắc, là điểm mạnh, điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực hàng hải phát triển. Bên cạnh đó, Chính phủ đang có nhiều chính sách để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, đơn vị phát triển. Môi trường kinh tế vĩ mô và chính trị ổn định, cùng với những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực kinh tế biển cũng đang thu hút nguồn lực hoặc các nhà đầu tư có tiềm lực tài chính, kinh nghiệm quản trị đến đầu tư [17].
Thứ ba, ngành Hàng hải Việt Nam đã có nhiều đơn vị thực hiện các bước chuyển đổi số ban đầu như sử dụng các trang web để cung cấp các thủ tục hỗ trợ tàu ra vào cảng, đây là điều kiện thuận lợi để ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, với chuyển đổi số làm nền tảng vào hoạt động của ngành.
Thứ tư, nhu cầu hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam đang có xu hướng tăng để phục vụ nhu cầu của nền kinh tế đang phát triển nhanh. Theo dự báo của PWC, tăng trưởng GDP hàng năm của Việt Nam đạt 5,1% trong giai đoạn đến năm 2050. Điều này thúc đẩy các tàu ra vào hoạt động tại các vùng nước cảng biển gia tăng [9].
Thứ năm, hiện đã có một số nghiên cứu về triển khai các dịch vụ hàng hải (e-navigation) theo chương trình được IMO khởi sướng. Đây được xem là cơ sở nền tảng để ngành Hàng hải Việt Nam nghiên cứu, triển khai các dịch vụ hàng hải số theo xu thế chung của ngành Hàng hải.
* Điểm yếu trong chuyển đổi số đối với ngành Hàng hải (W):
Hiện nay, các điểm yếu trong các cơ quan tổ chức trước yêu cầu về chuyển đổi số trong ngành Hàng hải được chỉ ra ngay sau đây:
- Cơ cấu tổ chức không đồng nhất và thiếu hội nhập văn hóa. Văn hóa tổ chức truyền thống có thể là điểm yếu ngăn cản hoặc làm chậm quá trình chuyển đổi số;
- Thiếu nhận thức về cách thức chuyển đổi số có thể ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức. Do thiếu nhận thức và hiểu biết, các tổ chức không đánh giá các nguồn lực và không đầu tư vào các nguồn lực để có thể đạt được chuyển đổi số;
- Văn hóa định hướng công nghệ. Công nghệ kỹ thuật số có thể cung cấp ít giá trị cho một tổ chức nếu không có sự phù hợp với chiến lược hoạt động;
- Thiếu khả năng thay đổi, dẫn đến chuyển đổi số diễn ra chậm hơn;
- Thiếu kỹ năng kỹ thuật số và lực lượng lao động có trình độ. Do sự xuất hiện của công nghệ mới, lực lượng lao động không có khả năng sử dụng công nghệ mới và phát huy hết tác dụng của công nghệ mới; thiếu kỹ năng kỹ thuật số và lực lượng lao động có trình độ sẽ làm chậm quá trình chuyển đổi số;
- Khả năng chống lại sự thay đổi của nhân viên và người quản lý. Sự phản kháng mà nhân viên có thể thể hiện khi các công nghệ đột phá được giới thiệu trong tổ chức: Sự phản kháng có thể được phân loại là mang tính hệ thống (nhận thức) hoặc hành vi (cảm xúc), trong đó tính hệ thống là việc thiếu thông tin, kỹ năng, kiến thức... và hành vi là các giả định, nhận thức và ứng phó với chuyển đổi số.
- Thiếu động lực của nhân viên và người quản lý; thái độ và ý kiến tiêu cực của các thành viên tổ chức có liên quan đến quá trình chuyển đổi số;
- Thiếu tầm nhìn, chiến lược và định hướng. Một số tổ chức không biết họ nên dẫn dắt chiến lược kỹ thuật số của mình theo hướng nào;
- Thiếu sự phối hợp và cộng tác, có vấn đề trong phối hợp với các đơn vị khác; ở cấp độ tổ chức;
- Thiếu đầu tư và sáng kiến; không có các khoản đầu tư liên quan đến số hóa hoặc mức đầu tư thấp cho các sáng kiến kỹ thuật số; thiếu sự chuyển đổi văn hóa và tổ chức dẫn đến thiếu đầu tư vào công nghệ mới và các sáng kiến kỹ thuật số.
* Cơ hội - động lực của chuyển đổi số trong ngành Hàng hải (O):
Động lực thúc đẩy các doanh nghiệp, các đơn vị liên quan đến ngành Hàng hải thực hiện chuyên đổi số bao gồm các yếu tố chính như giảm chi phí hoạt động, hợp lý hoá các hoạt động, thời gian trễ ít hơn...
Thứ nhất, giảm chi phí. Các tổ chức triển khai các công nghệ mới để đơn giản hóa việc hợp tác với các tổ chức khác và do đó giảm chi phí trao đổi thông tin và thực hiện các giao dịch... Các quy trình gọn gàng hơn, tự động hơn và không có lỗi giúp giảm chi phí.
Thứ hai, hợp lý hóa hoạt động. Làm cho các quy trình trở nên hiệu quả và đáng tin cậy hơn, ví dụ như bằng cách cải thiện việc lập kế hoạch nguồn lực; cải thiện luồng thông tin qua tuyến đường vận chuyển.
Thứ ba, thời gian trễ ít hơn. Hàng hóa và thông tin phải được chuyển trong khung thời gian yêu cầu; thời gian chờ tàu ngắn hơn và xử lý nhanh hơn tại các cảng biển. Các công nghệ mới và đang phát triển sẽ mở ra cơ hội mới chuyển đổi các mô hình hoạt động.
Thứ tư, khả năng xử lý dữ liệu lớn. Đây là yếu tố làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, các cảng biển Việt Nam, đồng thời làm tăng kỳ vọng của khách hàng đối với các cảng biển Việt Nam cũng như đội tàu vận tải biển quốc gia.
Thứ năm, môi trường cạnh tranh ngày càng thay đổi. Chuyển đổi số có thể phá vỡ thị trường hiện tại, kết hợp lại các sản phẩm và dịch vụ hiện có...
Thứ sáu, thích ứng được nhanh với các quy định do các tổ chức quốc tế và cơ quan quản lý đặt ra, với mục tiêu áp dụng công nghệ giao thông hàng hải theo hướng “xanh hóa”, phát thải thấp và tiến tới không phát thải.
Thứ bảy, cải thiện sự hợp tác của các bên liên quan; cải thiện sự hợp tác thông qua việc chia sẻ thông tin suôn sẻ giữa các bên liên quan.
Thứ tám, tính minh bạch của dữ liệu. Cung cấp sự minh bạch tốt hơn của tuyến đường vận tải; sự minh bạch trên tuyến đường vận chuyển từ người gửi đến người nhận, thông tin cập nhật theo thời gian thực giúp người vận chuyển và các cơ quan quản lý, các đơn vị cung cấp dịch vụ hàng hải chủ động trong công tác điều phối giao thông hàng hải, đảm bảo an toàn hàng hàng trên các vùng nước, đặc biệt là các tuyến luồng có mật độ tàu thuyền cao như Hải Phòng, Vũng Tàu - TP. Hồ Chí Minh.
* Thách thức - rào cản chuyển đổi số trong ngành Hàng hải (T):
- Trước hết là các thách thức về công nghệ:
Sự tồn tại của các hệ thống thông tin không đồng nhất và độc lập và thiếu các tiêu chuẩn. Hệ thống thông tin không đồng nhất, không tích hợp ngăn cản chuyển đổi số thành công trong ngành Hàng hải.
Giảm mức độ an ninh mạng (đặc biệt là trong lĩnh vực hoạt động kỹ thuật số) và khả năng phục hồi. Tất cả những bên tham gia trong chuỗi các hoạt động hàng hải đã không đảm bảo sự bảo vệ tốt nhất có thể để ngăn chặn các cuộc tấn công mạng. Khi công nghệ kỹ thuật số đang thay đổi nhanh chóng, bảo mật thông tin phải phát triển theo cùng một tốc độ.
Chi phí đầu tư/thực hiện cao. Không phải tất cả các đơn vị đều chọn số hóa hoạt động của mình do chi phí đầu tư/thực hiện đang còn cao.
Rủi ro triển khai cao của các công nghệ mới nổi và lo ngại về lợi tức đầu tư. Rủi ro cao khi thực hiện một thay đổi triệt để trong một lĩnh vực không xác định, chẳng hạn như số hóa hoặc chuyển đổi số cũng là rào cản làm chậm quá trình chuyển đổi số trong ngành Hàng hải.
- Hơn nữa, môi trường ngoại cảnh có thể cũng là rào cản đối với chuyển đổi số trong ngành Hàng hải hiện nay:
Thiếu các hướng dẫn cụ thể trong ngành Hàng hải. Do đó, các cơ quan, doanh nghiệp thiếu tầm nhìn rõ ràng về những gì cần chuyển đổi đầu tiên: hoạt động nội bộ, mối quan hệ khách hàng hoặc mô hình kinh doanh.
Các quy định còn thiếu hoặc không đầy đủ. Các quy định trong lĩnh vực vận tải biển thường cụ thể đối với từng quốc gia và câu hỏi đặt ra là liệu nó có thể đưa ra một công nghệ hoặc mô hình hoạt động cụ thể hay không.
Đề xuất giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số từ kết quả phân tích SWOT nhằm nâng cao ATGT hàng hải
* Các yếu tố chi phối sự thành công của chuyển đổi số trong lĩnh vực hàng hải:
Để thực hiện chuyển đổi số thành công, chúng ta cần xác định các yếu tố quan trọng chi phối sự thành công của chuyển đổi số gồm 3 nhóm: yếu tố thành công liên quan đến vấn đề tổ chức, liên quan đến môi trường bên ngoài và liên quan đến công nghệ áp dụng.
- Một là, nhóm yếu tố thành công về tổ chức gồm các yếu tố thành công sau:
- Mô hình kinh doanh mới.
- Tích cực hình thành các chiến lược trong tương lai thông qua đầu tư và tối ưu hóa kinh doanh (ví dụ: đào tạo nhân viên, công nghệ), để vượt qua những trở ngại và duy trì tính cạnh tranh;
- Tầm nhìn rõ ràng;
- Tạo khả năng mới và năng động.
- Năng động để cải thiện sự nhanh nhẹn của trí thông minh vào hoạt động và giá trị của tổ chức; khả năng năng động cho phép tổ chức xác định và đáp ứng các cơ hội bằng cách chuyển đổi tổ chức;
- Văn hóa sẵn sàng cho những thay đổi;
- Sự linh hoạt của tổ chức;
- Tổ chức sẵn sàng chấp nhận rủi ro và đưa ra quyết định trong điều kiện không chắc chắn;
- Sự tham gia của người quản lý và nhân viên. Các nhà lãnh đạo phải khuyến khích tư duy cầu tiến, cởi mở, chấp nhận công nghệ, tinh thần kinh doanh và cách làm việc khởi nghiệp. Nhân viên phải sẵn sàng hợp tác, sẵn sàng phát triển các kỹ năng mới;
- Thiết lập vai trò lãnh đạo mới như giám đốc kỹ thuật số. Giám đốc kỹ thuật số có nhiệm vụ đảm bảo rằng các công nghệ kỹ thuật số được tận dụng đúng cách và phù hợp với các mục tiêu của tổ chức;
- Kỹ năng/năng lực lãnh đạo kỹ thuật số;
- Đầu tư vào kiến thức của nhân viên và người quản lý;
- Giao tiếp trong tổ chức. Ý định của tổ chức là xây dựng mạng nội bộ để chia sẻ kiến thức và thông tin.
- Hai là, nhóm các công nghệ áp dụng gồm các yếu tố thành công sau:
- Hợp tác đa chức năng. Sự hợp tác giữa các khu vực chức năng khác nhau của tổ chức;
- Vấn đề bảo mật và tuân thủ kỹ thuật số. Các doanh nghiệp, tổ chức ngày càng phải đối mặt với các mối đe dọa mạng do sử dụng nhiều công nghệ mới và phải có các biện pháp đối phó thích hợp để đảm bảo an ninh;
- Đầu tư vào công nghệ thích hợp. Đầu tư vào các công nghệ phù hợp theo nhu cầu của doanh nghiệp; yếu tố quan trọng để tạo ra giá trị trong kinh doanh; để tăng năng suất, giảm chi phí;
- Các công nghệ mới được nhúng vào trong các chiến lược và quy trình hoạt động phù hợp. Bộ phận công nghệ thông tin hiểu chiến lược và hoạt động của tổ chức;
- Khả năng tương thích, tích hợp và khả năng tương tác của ICT và hệ thống. Tích hợp các hệ thống ICT cải thiện trao đổi dữ liệu, lập kế hoạch hoạt động và quản lý;
- Tích hợp giữa nhiều nền tảng thông tin; cho phép trao đổi thông tin và tài liệu suôn sẻ hơn;
- Phát triển kết nối và tiêu chuẩn quy trình hoạt động. Để tích hợp các quy trình kinh doanh dọc theo tuyến đường vận tải biển.
- Ba là, môi trường ngoại cảnh gồm các yếu tố dẫn đến thành công trong chuyển đổi số như sau:
- Sự tin tưởng lẫn nhau giữa tổ chức, ban lãnh đạo, các thành viên và các đối tác bên ngoài. Chìa khóa cho một môi trường làm việc ngày càng được số hóa.
- Hiểu nhu cầu của các bên liên quan và kỳ vọng của họ; triển khai các công nghệ mới để tăng cường hợp tác dọc theo tuyến đường vận tải và đáp ứng kỳ vọng của các bên liên quan (giảm sự chậm trễ, thông tin kịp thời và chính xác).
- Sự tham gia và cộng tác của khách hàng và đối tác. Một mạng lưới tối ưu của các tác nhân riêng lẻ, những người điều phối hoạt động của họ trong chuỗi vận tải để tối ưu hóa lưu lượng và dòng hàng hóa.
- Dữ liệu giữa các tổ chức và trao đổi kiến thức (tức là qua các ranh giới của tổ chức). Lập trường tích cực của tổ chức đối với làm việc theo nhóm, hợp tác đa chức năng và sẵn sàng hợp tác với các đối tác bên ngoài (khách hàng).
- Chính phủ/các nhà hoạch định chính sách hỗ trợ. Sự trợ giúp tài chính của chính phủ/các nhà hoạch định chính sách quy định đầy đủ.
- Các quy tắc do chính phủ hoặc các cơ quan chức năng khác đưa ra, khuyến khích chuyển đổi số.
* Đề xuất áp dụng chuyển đổi số các dịch vụ hàng hải:
Để nâng cao ATGT hàng hải hiện nay, giải pháp áp dụng các xu thế phát triển e-navigation vào các dịch vụ hàng hải nên xem xét ưu tiên triển khai.
Khi triển khai e-navigation phải đảm bảo rằng tất cả những người sử dụng được tiếp cận một tiêu chuẩn dịch vụ chung mà không phải trả chi phí lớn cho các tàu, đặc biệt là hàng triệu tàu nhỏ trên toàn cầu. Hiện tại, e-navigation chỉ đáp ứng một số lượng nhỏ người dùng chịu trách nhiệm về thương mại của thế giới và sử dụng các tàu rất lớn, tinh vi. Do đó, cộng đồng có trách nhiệm cung cấp khả năng kết nối mạng để đảm bảo rằng các tàu có thể chia sẻ thông tin hiện đại mà các tàu tuân thủ e-navigation được hưởng. Phải đào tạo để người vận hành phải có các kỹ năng, kỹ thuật thích hợp khi vận hành; làm quen và kiến thức để quản lý thông tin. Cần lưu ý rằng, điều quan trọng là con người luôn là trung tâm trong việc đưa ra quyết định. Máy móc, thiết bị được sử dụng để xử lý nhiều dữ liệu/thông tin nhanh chóng và không có lỗi. Những khi cần đến sự phán đoán, kinh nghiệm và “cảm nhận bản thân” thì yếu tố con người là tối quan trọng. Rút kinh nghiệm từ một số vụ tai nạn cho thấy, càng tự động hóa, con người càng phải được đào tạo bài bản để thực hiện. Yếu tố con người cần có hiểu biết, phát triển về mức độ tự động hóa và có khả năng hiểu các quy trình tự động hóa.
Việc triển khai e-navigation phải là một quá trình tiến hóa khác với cuộc cách mạng. Cần có các tiêu chuẩn và quy định, các tiêu chuẩn và cấu trúc dữ liệu hiện có nên được sử dụng trong các trường thử nghiệm. Lấy người sử dụng làm trung tâm chỉ định quan trọng để đảm bảo sự thành công của e-navigation cả trên tàu và trên bờ. Một lộ trình thực hiện các giải pháp được đề xuất thêm trong tương lai nên được phát triển như một phần của Kế hoạch thực hiện chiến lược (SIP). Các lợi ích thương mại cho toàn bộ chuỗi cung ứng được coi là động lực chính cho sự phát triển của e-navigation; triển khai e-navigation sẽ giảm bớt khối lượng công việc của người hàng hải bằng cách tự động hóa các công việc hàng ngày, cho phép người sỹ quan hàng hải tập trung vào nhận thức tình huống và nhiệm vụ chính là hàng hải. Rủi ro về các vấn đề an ninh mạng cần được xem xét trong việc triển khai e-navigation. Những người tham gia cho rằng, khái niệm “Đám mây Hàng hải” có thể hỗ trợ cơ sở hạ tầng ban hành và các thử nghiệm đang được tiến hành; cần xác định các trường hợp kinh doanh, thương mại đáng tin cậy để e-navigation giải quyết lợi ích của các bên liên quan; kết nối và chia sẻ dữ liệu sẽ là những yếu tố chính của bất kỳ giải pháp e-navigation nào trong tương lai.
E-navigation phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng định tuyến và giao tiếp phức tạp có thể có hoặc không bao gồm dữ liệu lớn hoặc đám mây. Tuy nhiên, các dịch vụ truyền thông, đám mây và tài nguyên dữ liệu lớn đều có thể bị lỗi vào lúc này hay lúc khác. E-navigation phải được xem xét trong bối cảnh tương tự [8].
Tiến tới xây dựng mô hình quản lý giao thông hàng hải thông minh dựa trên nền tảng chuyển đổi số lấy mô hình SMART-Navigation làm cơ sở.
Kết luận
Bài báo đã phân tích SWOT về chuyển đổi số, thể hiện rõ thực trạng chuyển đổi số trong ngành Hàng hải từ những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức. Hơn nữa, các yếu tố then chốt quyết định đến thành công của chuyển đổi số trong ngành Hàng hải cũng đã được phân tích chi tiết. Đồng thời, tác giả cũng đã đề xuất một giải pháp triển khai e-navigation trong ngành Hàng hải lấy cơ sở là các xu hướng đã được tác giả đánh giá như các dịch vụ hàng hải số, S-mode, MASS, IoT và kinh nghiệm triển khai e-navigation tại Hàn Quốc (SMART-Navigation) nhằm nâng cao ATGT hàng hải trên các vùng biển Việt Nam.
Để triển khai thành công giải pháp này, cần xây dựng chính sách pháp luật quy định các hoạt động liên quan đến e-navigation, tạo cơ sở pháp lý để phát triển e-navigation trong tương lai gần. Cần xây dựng chiến lược quốc gia về e-navigation kết hợp với quản lý các vùng biển dựa trên nền tảng công nghệ. Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hàng hải gắn liền với chuyển đổi số, thích ứng với các yêu cầu về phát triển bền vững trong ngành Hàng hải.
PGS. TS. Nguyễn Mạnh Cường; TS. Phan Văn Hưng
Trường Đại học Hàng hải Việt Nam
Tag:
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.