Việc phạt lỗi xe không chính chủ đã có từ năm 2016 - Ảnh minh họa |
Gần đây, thông tin từ năm 2020, Nghị định 100/2019 thay thế Nghị định 46/2016 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ - đường sắt sẽ xử phạt những người đi xe không chính chủ, kể cả đi xe mượn, xe thuê... đang khiến nhiều người hoang mang.
Cách hiểu này có đúng và thực chất Nghị định 100 đang quy định như thế nào?
Theo Luật sư Đoàn Văn Hướng, Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho biết, thực chất, quy định về xử phạt đối với lỗi xe không chính chủ không phải là quy định mới tại Nghị định 100/2019 mà quy định đã có tại Nghị định 46/2016.
Cụ thể, Khoản 1 và Khoản 5 Điều 30 Nghị định 46/2016 quy định, mức xử phạt đối với chủ phương tiện vi phạm quy định liên quan đến giao thông đường bộ như sau:
Phạt tiền từ 100.000 - 200.000 đồng đối với cá nhân, từ 200.000 - 400.000 đồng đối với tổ chức là chủ xe mô tô, xe gắn máy và các loại xe tương tự xe mô tô thực hiện một trong các hành vi vi phạm không làm thủ tục đăng ký sang tên xe (để chuyển tên chủ xe trong Giấy đăng ký xe sang tên của mình) theo quy định khi mua, được cho, được tặng, được phân bổ, được điều chuyển, được thừa kế tài sản là xe mô tô, xe gắn máy, các loại xe tương tự xe mô tô.
Phạt tiền từ 1 - 2 triệu đồng đối với cá nhân, từ 2 - 4 triệu đồng đối với tổ chức là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô thực hiện hành vi không làm thủ tục đăng ký sang tên xe (để chuyển tên chủ xe trong Giấy đăng ký xe sang tên của mình) theo quy định khi mua, được cho, được tặng, được phân bổ, được điều chuyển, được thừa kế tài sản là xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng, các loại xe tương tự xe ô tô.
Đến Nghị định 100/2019, quy định xử phạt đối với hành vi xe không chính chủ hay chính xác là hành vi không đăng ký sang tên xe tại Nghị định 46 tiếp tục được tái khẳng định nhưng với mức xử phạt cao hơn
Cụ thể, Khoản 4 và Khoản 7 Điều 30 Nghị định 100 quy định: Phạt tiền từ 400.000 - 600.000 đồng đối với cá nhân, từ 800.000 - 1,2 triệu đồng đối với tổ chức là chủ xe mô tô, xe gắn máy và các loại xe tương tự xe mô tô không làm thủ tục đăng ký sang tên xe (để chuyển tên chủ xe trong Giấy đăng ký xe sang tên của mình) theo quy định khi mua, được cho, được tặng, được phân bổ, được điều chuyển, được thừa kế tài sản là xe mô tô, xe gắn máy, các loại xe tương tự xe mô tô.
Phạt tiền từ 2 - 4 triệu đồng đối với cá nhân, từ 4 - 8 triệu đồng đối với tổ chức là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô không làm thủ tục đăng ký sang tên xe (để chuyển tên chủ xe trong Giấy đăng ký xe sang tên của mình) theo quy định khi mua, được cho, được tặng, được phân bổ, được điều chuyển, được thừa kế tài sản là xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng, các loại xe tương tự xe ô tô.
Việc xử phạt đối với hành vi xe không chính chủ là quy định đã có từ năm 2016 chứ không phải đến năm 2020 mới có như nhiều người vẫn nghĩ. Nếu mới thì chỉ là mới về mức tiền phạt, cụ thể như đã nêu trên.
Tuy nhiên, quy định về xử phạt lỗi xe không chính chủ tại Nghị định 46 và Nghị định 100 chỉ áp dụng đối với chủ xe mô tô, xe máy, xe ô tô và các loại xe tương tự, tức phải là chủ sở hữu của phương tiện, những người không phải là chủ sở hữu phương tiện thì không thuộc phạm vi điều chỉnh, không phải là đối tượng xử lý của quy định này.
Theo đó, người điều khiển phương tiện đi thuê, đi mượn hoặc sử dụng chung phương tiện với người thân trong gia đình để tham gia giao thông sẽ không bị xem xét, xử lý về hành vi xe không chính chủ.
"Việc xác minh để phát hiện hành vi vi phạm lỗi xe không chính chủ của chủ phương tiện chỉ được thực hiện khi cá nhân, tổ chức đến cơ quan CSGT đề thực hiện thủ tục đăng ký, di chuyển xe hoặc trong quá trình điều tra giải quyết các vụ tai nạn giao thông. Lực lượng CSGT khi thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát trên đường khi tiến hành kiểm tra giấy tờ xe sẽ không xác minh và xử phạt đối với hành vi vi phạm này", Luật sư Hướng cho biết.
Tag:
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.