Làm sáng tỏ hơn lý luận và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam

29/05/2021 15:58

Nhân dịp kỷ niệm 131 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại (19/05/2021) và bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Để góp phần tìm hiểu sâu hơn những vấn đề nêu trong bài viết của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Tòa soạn trân trọng trích giới thiệu bài phát biểu của Cố GS Nguyễn Đức Bình, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận TW tại Hội nghị triển khai các chương trình và đề tài khoa học xã hội cấp nhà nước giai đoạn 1996 - 2020.

m_resize_1.jpg
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh chụp ảnh chung với các thành viên Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2001-2005 - Ảnh tư liệu.

" Bộ Chính trị giao cho bảy chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước giai đoạn 1996 - 2000 thực hiện mục tiêu tổng quát là tiếp tục xây dựng, phát triển, cụ thể hóa, làm sáng tỏ hơn nữa lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cung cấp cơ sở khoa học cho việc chuẩn bị những văn kiện lịch sử của Đại hội Đảng lần thứ IX. Tất cả 7 chương trình và 56 đề tài đều phải quán triệt và góp phần thực hiện mục tiêu tổng quát đó.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nhận định: "Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn"[1]. Đồng thời phải thấy hiện nay trên nhiều vấn đề khá căn bản, lý luận chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng. Mặt khác, đường hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội đang đòi hỏi phải được chứng giải có tính hệ thống về mặt lý luận. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có nghĩa là sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn có ý nghĩa quyết định. Từ đó, nhiệm vụ xây dựng một hệ thông quan điểm, nhận thức lý luận tương đốì hoàn chỉnh và cụ thể về mục tiêu và định hướng xã hội chủ nghĩa, về con đường, các bước đi, các giải pháp lớn nhằm đạt mục tiêu và đúng định hướng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giò hết. Đây là nhiệm vụ trung tâm của cồng tác lý luận và khoa học xã hội từ nay đến năm 2000.

Vấn đề mục tiêu chủ nghĩa xã hội và con đường dẫn đến mục tiêu thật ra không phải bây giờ Đảng ta mới đặt ra. Vấn đề đã được đặt ra trên 70 năm nay. Từ những năm 1920, sau nhiều năm tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã đến với chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người đã xây dựng chiến lược cho cách mạng Việt Nam, vạch rõ con đường đi lên của cách mạng là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Từ hai phần ba thế kỷ đến nay, về thực chất, cách mạng Việt Nam phát triển theo Đường cách mệnh, Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng, Luận cương chính năm 1930 do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vạch ra. Thực tiễn cách mạng Việt Nam vô cùng phong phú. Tư duy lý luận của Đảng không ngừng phát triển trong quá trình thực tiễn... ở mỗi bước ngoặt của cách mạng, thực tiễn lại đặt ra hàng loạt vấn đê mới, phức tạp, đòi hỏi làm sáng tỏ bằng hệ quan điểm vừa thể hiện quy luật chung xuyên suốt của cuộc cách mạng Việt Nam, vừa thể hiện tính đặc thù của từng giai đoạn.

Trong khi tập trung thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, cương lĩnh đầu tiên của Đảng vạch rõ cách mạng Việt Nam sẽ chuyến sang giai đoạn xã hội chủ nghĩa sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ. Song, quan niệm về chủ nghĩa xã hội khi đó còn rất chung chung.

Từ sau năm 1954, xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành nhiệm vụ trực tiếp, nhưng mới chỉ ở miền Bắc và trong thực tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội lúc đó, nhất là từ giữa những năm 1960, chủ yếu là xây dựng hậu phương lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vì thế ở chừng mực nhất định, có thể nói về thời kỳ đó như một kiểu "chủ nghĩa xã hội thời chiến". Trong thời kỳ này, Đảng ta vẫn không sao nhãng việc tìm tòi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với nước ta, nhất là từ những năm 1970 việc nghiên cứu lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội được đẩy mạnh hơn.

Tuy nhiên, chỉ sau khi miền Nam được giải phóng, Tổ quốc thống nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành nhiệm vụ chung của cả nước, công tác lý luận của Đảng mới tập trung được vào nghiên cứu vê chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12-1976) đề ra đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đánh dấu sự cố gắng thể hiện một ý tưởng lớn về con đường Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội một cách sáng tạo. Song, từ nghị quyết vào thực tiễn, kết quả đạt được không như ý muốn. Bên cạnh những thành tựu đáng kể, đã xảy ra những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương và chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Từ cuối những năm 70 đầu những năm 80 thế kỷ XX, khi kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng ngày càng trầm trọng, thì vấn đề do thực tiễn đặt ra không phải chỉ là điều chỉnh nhận thức các vấn đề cụ thể, mà là phải đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) mở đầu bước ngoặt căn bản trong tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội khẳng định cần kiên trì những nhận thức đúng, những thành tựu đã đạt được, đồng thời vạch rõ những quan điểm sai lầm chủ quan duy ý chí trước đó về chủ nghĩa xã hội.

Quan điểm, đường lối đổi mới do Đại hội VI vạch ra được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) phát triển, cụ thể hóa trên nhiều phương diện và được thể hiện tập trung ở Cương lĩnh chính trị và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) phát triển, cụ thể hóa thêm một bước đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhận định đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu đến khoảng năm 2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII nhận định: "Xét trên tổng thế việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy trong quá trình thực hiện có một số khuyết điểm, lệch lạc lớn và kéo dài dẫn đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác"[2]. Xét trên quan điểm lý luận, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII cho rằng: "Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn"[3].

Chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI mở đầu với Đại hội IX của Đảng. Đại hội sẽ quyết định những vấn đề lớn phát triển đất nước trên cơ sở tống kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực tiễn 15 năm đổi mới. Trên cơ sở những thành tựu lý luận đã đạt được, phải tiến đến quan niệm tương đối hoàn chỉnh về mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về những bước đi, những giải pháp lớn phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thời đại, bảo đảm đưa đất nước đi đúng hướng, vượt qua mọi thử thách, đạt mục tiêu đã định. Do đó, từ nay đến Đại hội IX Đảng ta cần có những nỗ lực to lớn trong tư duy lý luận, trong tống kết thực tiễn và sáng tạo lý luận.

Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội không thế là những giáo điều ngưng đọng mà luôn phát triển, nhất là ở những bước ngoặt phức tạp của lịch sử. Trở lại với Cương lĩnh chính trị được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII năm 1991, chúng ta đều nhớ chính Đại hội đã lưu ý rằng: "Đương nhiên, những gì mà nhận thức chúng ta đạt tới hôm nay sẽ còn được bổ sung, phát triển cùng với sự phát triển sau này của thực tiễn và của tư duy lý luận"[4]. Từ đó đến nay tình hình đã có thay đổi lớn, rất nhiều những diễn biến mới. Chẳng hạn, khi thông qua Cương lĩnh, Liên Xô vẫn tồn tại, nhưng sau đó không lâu Liên Xô đã sụp đổ, đặt ta vào tình thế xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế bị đảo lộn lớn. Thực tiễn Việt Nam đặt ra nhiều vấn đề rất mới chồng lên không ít vấn đề cũ chưa được giải quyết. Đến nay đã qua hơn 10 năm đổi mới và đến Đại hội IX, có thực tiễn 15 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội theo quan niệm mới. Thế giới 10 năm qua cũng tiếp tục thay đổi rất nhiều, đầy những mâu thuẫn và chuyến biến phức tạp. Tất cả điều đó đòi hỏi phải được soi sáng về mặt lý luận để chuẩn bị tiến bước vững chắc vào thế kỷ mới.

Hầu hết các quốc gia đều có những dự báo và sự chuẩn bị chiến lược cho thế kỷ XXI; chúng ta càng cần một tầm nhìn như thế, để có thể chủ động trước mọi diễn biến thời cuộc, tranh thủ thời cơ thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn thách thức, vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn.

Nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội qua đổi mới cho đến nay căn bản là đúng, song vẫn còn ở những định hướng cơ bản. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu càng xuất hiện nhiều vấn đề cụ thế không dễ trả lời chỉ với định hướng chung hoặc chỉ dựa vào kinh nghiệm. Chúng ta nói phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chống nguy cơ chệch hướng. Song định hướng xã hội chủ nghĩa là thế nào, biểu hiện ra sao trên từng lĩnh vực? Thế nào là đúng hướng, thế nào là chệch hướng? Chúng ta nói kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chê thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Song có phải thị trường với chủ nghĩa xã hội là không thế dung hợp với nhau? Làm sao bảo đảm chủ nghĩa xã hội với thị trường không những hoàn toàn có thể tương dung mà còn phải chứng tỏ được rằng chỉ có làm đúng như thế mới có thế đẩy mạnh sự phát triển? Nhà nước quản lý thế nào, quản lý cái gì, cái gì nắm, cái gì "buông"? Kinh tế nhà nước chủ đạo là thế nào và phải làm sao đế đóng được vai trò chủ đạo? Cố phần hóa thế nào, tại sao làm khó và chậm? Liên doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế, giữa trong nước với ngoài nước thế nào? Tố chức kinh tế hợp tác ra sao? Nông dân, thợ thủ công, tiểu thương không thế làm ăn cá thể mãi được, vì ngay cả dưới chủ nghĩa tư bản, phương thức kinh doanh nhỏ cá thế cũng biến dần và kinh tế hợp tác đã là một hình thái tất yếu. Nhưng vấn đề là ở chỗ phải tìm cho được những hình thức thích hợp của kinh tế hợp tác phù hợp với nhu cầu phát triển của sản xuất, với trình độ của lực lượng sản xuất, với điều kiện Việt Nam định hướng tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.

Phải chăng có thể khẳng định trong điều kiện nước ta quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách sử dụng một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với kinh tế nhà nước làm chủ đạo, vận hành theo cơ chế thị trường, thông qua con đường tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau, đặt dưới sự kiểm kê, kiểm soát và hướng dẫn của Nhà nước - Nhà nước của dân, do dân và vì dân, dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Quan điểm ấy phải chăng được coi là học thuyết về xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Lênin là người khởi xướng và ngày nay, thực tiễn đã cho phép chúng ta phát triển phong phú hơn nhiều? Quan điểm lớn này đặt ra yêu cầu nhận thức lại, bố sung, phát triển, đổi mới hàng loạt khái niệm, phạm trù. Có những quy luật đang chi phối hiện thực mà chưa được phát hiện hoặc tổng kết, thậm chí được xác nhận bằng các chính sách, nhưng chưa được soi sáng về mặt lý luận, chẳng hạn vấn đề sức lao động có là hàng hóa trong xã hội ta hay không?

Mới bắt tay vào công cuộc đổi mới chưa bao lâu không thể tránh khỏi những trường hợp phải mò mẫm, thử nghiệm, nhiều cái phải qua làm rồi mới biết. Những khái quát lý luận vội vàng khi thực tiễn chưa đủ độ chín có thể dẫn đến những hậu quả tai hại. Tất nhiên không thế kéo dài tình trạng mò mẫm, thiếu tự giác, vì điều đó dẫn đến hành động mù quáng, thiếu nhất quán, thậm chí có thế dẫn đến chệch hướng. Lênin nói đại ý: những ai bắt tay vào cái riêng mà không hiểu cái chung, không giải quyết trước vấn đề chung trên mỗi bước đi sẽ không sao tránh khỏi "vấp phải" những vấn đê chung một cách không tự giác, từ đó rất dễ dẫn đến dao động, mất tính nguyên tắc. Cũng có ý kiến cho rằng, các vấn đề kinh tế và không chỉ kinh tế mà cả những vấn đề xã hội, văn hóa, hệ thống chính trị, và không chỉ ở ta mà cả trên thế giới, quá phức tạp, mới mẻ, đang trải qua những đảo lộn cực lớn thì làm sao có thể đi đến quan điểm lý luận chung thống nhất? Tôi cho rằng, chính vì công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tính phức tạp và đa dạng của các quá trình và quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng tăng; chính vì thế giới đầy biến động, không yên, lại sắp bước vào thế kỷ XXI, chính vì tất cả điều đó nên càng phải ra sức cố gắng để có được quan niệm đúng đắn, vững chắc, thấu suốt về con đường đi lên của đất nước. Coi nhẹ lý luận, làm đến đâu hay đến đấy, chỉ thấy hôm nay không thấy ngày mai, thấy hiện tượng mà không hiểu sâu bản chất, quy luật, thấy bộ phận mà không hiểu đại cục thì có thể dẫn đến những vấp váp lớn. Nếu không ý thức rõ con đường lớn, sẽ dẫn đến tình hình là trong khi làm "được" một cái gì đó lại có thể làm "mất" đi nhiều, thậm chí dần dà mất hết mà không tự biết, đến khi biết ra thì đã quá muộn! Mặt khác, không tự ý thức được thật sáng rõ con đường lớn phải đi thì cũng dễ sinh ra bị động, bảo thủ, thiếu tự tin, không dám chịu trách nhiệm, làm gì cũng sợ sai, sợ trật!

Chúng ta cũng cần chú ý tình hình đấu tranh tư tưởng - lý luận rất phức tạp hiện nay giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa cơ hội các loại. Đương nhiên cần phải kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhưng bảo vệ thế nào, đấu tranh sao cho có hiệu quả, có sức thuyết phục? Trước hết, vấn đề là có thực sự tồn tại cuộc đấu tranh ấy hay đây chỉ là sự bày đặt giả tạo? Đối với tất cả chúng ta, đối với mọi người mácxít - lêninnít và xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đấu tranh ấy không những có thực, mà còn diễn ra một cách gay gắt và phức tạp về mặt tư tưởng - lý luận mà chúng ta không thể lẩn tránh, vấn đề chỉ ở cách đấu tranh sao cho thích hợp và có hiệu quả. Chỉ có làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn con đường đi lên của chúng ta mới tạo cơ sở vững chắc cho niềm tin vào nền tảng tư tưởng của chúng ta, vào mục đích cuối cùng của chúng ta, mới có thể góp phần ngăn ngừa, đẩy lùi, đánh bại những âm mưu thủ đoạn chống phá ta về tư tưởng - lý luận, trực tiếp góp phần vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.

Toàn bộ các chương trình, đề tài khoa học xã hội được triển khai nghiên cứu trên nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đương nhiên chúng ta không loại trừ mà hết sức trân trọng và biết sử dụng đúng đắn mọi thành tựu khác của trí tuệ loài người. Bản thân chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng cần được tiếp tục nghiên cứu sâu sắc, sáng tạo, không kinh viện, giáo điều mà gắn chặt với thực tiễn, với lịch sử cụ thể, hướng vào làm rõ vì sao cách mạng Việt Nam, công cuộc đổi mới hiện nay, con đường tiến lên của đất nước phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Những thử thách nặng nề phải trải qua trong thập kỷ gần đây và ngay cả hiện nay có chứng tỏ chủ nghĩa Mác - Lênin không còn sức sống như một số kẻ tuyên bố “Phải chăng chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội đã lỗi thời? Phải chăng lịch sử loài người đã kết thúc ở chủ nghĩa tư bản? Phải chăng chủ nghĩa tư bản hiện đại đã không còn là chủ nghĩa tư bản, đã mất đi bản chất chế độ bóc lột lao động làm thuê và chủ nghĩa tư bản hiện đại là giải pháp cho mọi vấn đề đang đặt ra trước loài người, trước mọi quốc gia dân tộc? Phải chăng với sự sụp đổ của Liên Xô, không còn có thể nói đến thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội? Nếu chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng đầy rẫy những mâu thuẫn nan giải, những ung nhọt, khuyết tật như ngay một số chính khách và học giả phương Tây cũng phải thừa nhận đó là sự "phản phát triển", là "một thế giới không thể chấp nhận",... thì đâu là lối thoát của loài người, nếu không phải là chủ nghĩa xã hội? Liệu có hay không "con đường thứ ba"?

Để luận chứng cho sự lựa chọn xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng đốì với con đường phát triển đất nước ta, không thể không tiến hành một cuộc tổng kết sâu sắc, quy mô về lịch sử. Để có cơ sở vững chắc, không gì lay chuyển nổi cho niềm tin của nhân dân ngay cả cho chính chúng ta, vào con đường xã hội chủ nghĩa; đế có cơ sở bác bỏ tận gốc những luận điệu dối trá, xuyên tạc, những sự phê phán vô căn cứ, những cái gọi là "học thuyết mới", "cách tiếp cận mới" nhưng thực chất vẫn là thiên kiến tư sản về con đường đi của nhân loại thời nay, tôi nghĩ đã đến lúc phải đặt lên bàn một loạt câu hỏi đại loại như trên đây đế đi sâu nghiên cứu một cách thật nghiêm túc, công phu và triệt để - "triệt đế có nghĩa là nắm tận gốc rễ sự vật" (C. Mác). Muốn thế, công tác lý luận phải cố gắng vượt bậc để làm một cuộc tổng kết lịch sử, tổng kết thực tiễn thật sự rộng lớn và sâu sắc.

Phải tổng kết lịch sử chủ nghĩa Mác, tất nhiên bao gồm cả giai đoạn Lênin và sau Lênin, từ đó có được những dự báo về tương lai chủ nghĩa Mác ở thế kỷ XXI. Ta biết hằng bao năm nay tương lai học phương Tây tung ra không biết bao nhiêu công trình dự báo về thế kỷ XXI, có những dự báo cả về sô phận chủ nghĩa Mác mà về mặt này, bên cạnh một sô tác giả quả quyết chủ nghĩa Mác đã "bị chôn vùi", đã có không ít tắc giả cho rằng kết luận như vậy là quá ư nông cạn và vội vàng, thậm chí có người cho rằng tương lai thuộc vê chủ nghĩa Mác, rằng không thể hình dung thế kỷ XXI mà không có chủ nghĩa Mác, rằng chủ nghĩa Mác đang sống ngay trong nhiều trường đại học phương Tây. Tôi nghĩ, một công trình khoa học bàn về "Vận mệnh lịch sử của học thuyết Mác" xem ra có ý nghĩa rất thời sự hiện nay. Làm được đến đâu là do sức ta, nhưng có lẽ phải đặt vấn đề trên tầm mức như vậy, bởi đó là nhu cầu của thực tiễn cách mạng, là đòi hỏi của chính lịch sử.

Phải tổng kết lịch sử chủ nghĩa xã hội từ lý luận đến hiện thực với tất cả những thành tựu vĩ đại và cả những thất bại, những bài học nghiêm trọng trong ngót thế kỷ XX.

Phải nghiên cứu quá trình vận động của chủ nghĩa tư bản từ sau Lênin, đặc biệt giai đoạn hiện nay, làm sáng tỏ những đặc điểm mới, những gì nó đã có thế mang lại cho văn minh loài người mà thời Mác và Lênin chưa thể dự đoán; đồng thời làm sáng tỏ chính ngay bước tiến mới ấy của văn minh lại làm sâu sắc hơn bao giờ hết những mâu thuẫn cực kỳ nan giải, xu thế phát triển tự phủ định và giới hạn lịch sử của chủ nghĩa tư bản hiện đại.

Phải phân tích sâu sắc tính chất và nội dung cơ bản của thời đại ngày nay, khúc quanh lịch sử mà loài người đang trải qua, những đặc điểm của thế giới trong giai đoạn chúng ta đang sống, những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu và những xu thế tất yếu đang tác động lên quá trình phát triển thế giới sau "chiến tranh lạnh".

Tóm lại, một cuộc tống kết thực tiễn có quy mô lịch sử và ở tầm thế kỷ là cần thiết, nếu chưa đủ khả năng đi thật sâu thì ít ra cũng hình dung cho được bức tranh lịch sử trên những nét lớn, bởi tất cả những vấn đề nêu trên đây đều liên quan đến toàn bộ bảy chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước giai đoạn 1996 - 2000 mà chúng ta phải thực hiện. Hơn nữa, về thực chất và trên mức độ nhất định, đó là nhiệm vụ khoa học trực tiếp đặt ra cho nhiều đề tài nằm trong các chương trình từ KHXH.01 đến KHXH.07. Những nội dung trên nêu được nhận thức một cách chính xác, khoa học thì đó là một tiền đề phương pháp luận rất quan trọng cho việc tiếp cận và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề đặt ra trong các chương trình và đề tài khoa học xã hội nói chung.

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng, là đường lối nhất quán của Đảng ta. Sự lựa chọn ấy là của chính lịch sử dân tộc từ cuối những năm 1920 được Bác Hồ và Đảng ta nắm bắt và thể hiện trong Đường cách mệnh, Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt, trong Luận cương chính trị năm 1930 và được thực tiễn gần 70 năm chiến đấu thắng lợi của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng chứng minh là đúng đắn. Đương nhiên, khoa học cần phải làm sáng tỏ hơn nữa về mặt lý luận sự lựa chọn đó trong bối cảnh lịch sử phức tạp hiện nay. Bởi, khúc quanh lịch sử đầy sóng gió như đã diễn ra làm một số người đâm bối rối trước câu hỏi: dân giàu, nước mạnh bằng con đường nào? Câu hỏi hôm nay làm ta nhớ đến câu hỏi đặt ra đầu thế kỷ: cứu nước bằng con đường nào?

Thế nghĩa là trong lựa chọn con đường vẫn còn vấn đề, bởi có người nói: độc lập dân tộc - đồng ý, nhưng chủ nghĩa xã hội thì không! Đối với tất cả chúng ta thì vấn đề đã rõ và dứt khoát: "nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì"[5] nghĩa là nhất thiết phải tiến lên chủ nghĩa xã hội mới thật sự có dân giàu (toàn dân chứ không phải chỉ một số người), nước mạnh, mới có độc lập thật sự và vững bền. Cho nên "dân giàu, nước mạnh" phải đi đôi với "xã hội công bằng, văn minh". Điểm căn bản, cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, không thể hiểu cách khác. Tư tưởng của Hồ Chí Minh sở dĩ trở thành tư tưởng Hồ Chí Minh - tài sản quý báu của dân tộc ta - chính vì chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam được kết tinh ở Hồ Chí Minh bắt gặp trào lưu tư tưởng xã hội tiến bộ nhất của thời đại là chủ nghĩa Mác - Lênin, tạo nên bước ngoặt lịch sử căn bản đưa sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân ta đi đúng vào quỹ đạo của thời đại là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Quả thật vấn đề "hai con đường" vẫn đang tồn tại và tồn tại một cách khách quan trong thực tế đời sống, dù muốn hay không vẫn đang còn là vấn đề mà nhận thức chính trị và lý luận khoa học không thể né tránh. Ta đều biết, từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới đến nay, trong cơ sở kinh tế nước ta diễn ra bốn chuyển đổi lớn: thứ nhất, từ một nền kinh tế công hữu thuần nhất dưới hai hình thức quốc doanh và tập thể chuyển sang một nền kinh tế nhiều thành phần; thứ hai, từ một nền kinh tế về cơ bản là tự cấp, tự túc và mang quan hệ hiện vật chuyển sang một nền kinh tế hàng hóa; thứ ba, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp chuyển sang một nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, trong đó có kế hoạch; thứ tư, từ một nền kinh tế gần như khép kín với các nước phương Tây chuyến sang một nền kinh tế mở rộng cửa với bên ngoài.

Vấn đề "hai con đường" bắt nguồn từ những điều kiện khách quan trong hiện thực mà các chương trình, đề tài của chúng ta không thể bỏ qua, vì nếu bỏ qua thì còn nói gì đến làm sáng tỏ hơn nữa lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cho nên, xét trực tiếp trên nội dung này thì chương trình KHXH.01 với các đề tài KHXH.01-04 (Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản...), KHXH.01-05 (Mối quan hệ giữa giai cấp - dân tộc - nhân loại...), KHXH.01-06 (Về những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu và cách giải quyết...), KHXH.01-07 (Về định hướng xã hội chủ nghĩa...) là cực kỳ quan trọng. Toàn bộ chương trình KX.03 (Xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa...) là cực kỳ quan trọng. Ngay các chương trình KHXH.02 (Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa...), KHXH.04 (Phát triển văn hóa và xây dựng con người...), KHXH.07 (Về quốc phòng, an ninh...) cũng không thế không tính đến vấn đề "hai con đường".

Đương nhiên nói "hai con đường", "đấu tranh giữa hai con đường" chớ vấp lại sai lầm cũ. Trong điều kiện nước ta từ nông nghiệp lạc hậu muốn bỏ qua chế độ tư bản để đi dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội, xét tiền đề vật chất, thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nội dung cơ bản và điều kiện then chốt bảo đảm thắng lợi cho con đường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, vị trí của chương trình KHXH.02 là cực kỳ quan trọng. Nhưng lấy đâu ra máy móc, thiết bị công nghệ, vốn liếng, kinh nghiệm để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là khi không còn "bao cấp quốc tế"? Tìm đâu ra những thứ đó nếu không sử dụng chủ nghĩa tư bản, tư bản trong nước và tư bản nước ngoài. Từ đó, việc sử dụng một cách rộng rãi và mạnh dạn hình thức kinh tế tư bản nhà nước kiểu đặc biệt như Lênin nói, nghĩa là kinh tế tư bản nhà nước dưới chính quyền nhân dân do giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản lãnh đạo là một tất yếu kinh tế.

Một tất yếu để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội; hai là, tất yếu về mặt quan hệ sản xuất như những nấc thang trung gian, những nhịp cầu quá độ dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội; ba là, để không chế và kiểm soát tính tự phát tư bản chủ nghĩa, hướng nền sản xuất nhỏ đi vào con đường sản xuất lớn một cách tự nhiên và có tổ chức. Có điều cần lưu ý là với kinh tế tư bản nhà nước, cuộc đấu tranh giữa hai con đường tất yếu diễn ra cực kỳ gay go và phức tạp. Nếu xét tận bản chất và tính quy luật của các quá trình kinh tế, chẳng phải thực tế đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ trước mắt chúng ta là ai sử dụng ai giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đó sao? Ai chuyển hóa ai? Rốt cuộc con đường nào sẽ thắng? Những câu hỏi đó làm sao tránh khỏi đụng đến khi đi sâu nghiên cứu. Ở đây chỉ nêu vấn đề, còn đi sâu phân tích và tìm kiếm giải pháp là nhiệm vụ các đề tài có liên quan.

Một vị trí đặc biệt quan trọng dành cho chương trình KHXH.04 bởi toàn bộ sự nghiệp xây dựng, sáng tạo xã hội mới xét cho cùng là vì con người và do con người. Còn văn hóa nói chung ngày nay cũng được nhận thức ở một tầm cao mới - nó không chỉ là mục tiêu, là động lực mà còn đóng vai trò một hệ điều tiết sự phát triển kinh tế và xã hội. Về chương trình KHXH.05 khỏi phải nói, ai nấy đều biết Đảng là người tổ chức và lãnh đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân, của dân tộc, xây dựng Đảng do đó là nhiệm vụ then chốt, mọi thắng lợi cách mạng, xét cho cùng, phụ thuộc một cách quyết định vào năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Điều quan trọng nhất đặt ra cho các chương trình KHXH.04, KHXH.05, cho các đề tài thuộc hai chương trình này là tổng kết thực tiễn sâu sắc, tổng kết có lý luận những vấn đề về phát triển văn hóa, xây dựng con người theo định hướng xã hội chủ nghĩa, về nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng không phải trong những điều kiện trước đây mà trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, mở cửa với bên ngoài, dân chủ hóa đời sống xã hội, trong điều kiện dân trí ngày càng cao,... Từ đó hình thành cho được hệ quan điểm và những giải pháp có tính chiến lược trong sự nghiệp phát triển văn hóa, xây dựng con người, nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới.

Chỉ còn hơn ba năm nữa là bước sang thế kỷ mới. Quỹ thời gian khá eo hẹp, do đó, càng thúc bách chúng ta phải tận lực sử dụng với hiệu suất cao cho công việc của mình.

Cần tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, đổi mới phong cách nghiên cứu lý luận, khâu quyết định nhất ở đây là tổng kết thực tiễn, tổng kết lịch sử với một phương pháp luận đúng đắn, thật sự mácxít, để xây dựng quan niệm tương đối đầy đủ, hoàn chỉnh, có căn cứ khoa học về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - sản phẩm cuối cùng được kết tinh từ bảy chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước giai đoạn 1996 - 2000 mà Bộ Chính trị giao cho chúng ta".

GS Nguyễn Đức Bình

Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị QG Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương,

---

[1]  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr, 68

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr, 68

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr, 68

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, H, 1991, tr, 111

[5] . Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 4, tr. 64

Ý kiến của bạn

Bình luận