Ngành GTVT phấn đấu trước năm 2020 sẽ trình Quốc hội báo cáo chủ trương xây dựng đường sắt cao tốc Bắc - Nam |
Từ thực tế…
Mới đây, Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo 331/TB-VPCP truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng về tổng quan đường sắt Việt Nam và việc “tái khởi động” phương án xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.
Theo đánh giá, hiện nay mạng đường sắt quốc gia có tổng chiều dài 3.134km, trong đó 2.531km chính tuyến, 612km đường nhánh và đường ga. Song, do đã xây dựng từ lâu, lại không được nâng cấp, mở rộng theo đúng yêu cầu phát triển nên đường sắt Việt Nam hiện vẫn hoàn toàn là đường đơn, khổ đường 1.000mm và ngày càng xuống cấp.
Tiêu chuẩn kỹ thuật kết cấu hạ tầng đường sắt thấp, lạc hậu, hạn chế cả về bình diện trắc dọc, kết cấu tầng trên dẫn đến năng lực thông qua và năng lực chuyên chở rất hạn chế, tính cạnh tranh không cao.
Hiện nay, hành lang ATGT đường sắt bị lấn chiếm nghiêm trọng, đường sắt giao cắt với đường bộ và đường dân sinh có mật độ cao là những nguyên nhân chủ yếu hạn chế tốc độ chạy tàu, đe dọa an toàn giao thông đường sắt.
Hơn nữa, do điều kiện địa hình nước ta có bề ngang hẹp, trải dài với hai trung tâm kinh tế lớn là Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh tập trung ở hai đầu đất nước, nên việc phát triển giao thông kết nối hai khu vực này và nối liền các thành phố, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu du lịch dọc tuyến là rất cần thiết.
Đặc biệt, theo dự báo vận tải, đến năm 2030, Việt Nam xây dựng các dự án khác như cảng hàng không, đường bộ cao tốc Bắc - Nam từ 4 - 6 làn xe và cải tạo đường sắt cũ với tốc độ 80 km/h vẫn cần có thêm tuyến đường sắt mới vì khi đó, với khoảng 57 triệu hành khách/năm, bắt buộc phải có thêm đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam mới có thể đảm nhận việc vận chuyển.
Gỡ nút thắt
Từ những đánh giá này, Phó Thủ tướng cho rằng, xuất phát từ đặc thù của Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam cần quy trình, thủ tục đầu tư kéo dài, nhu cầu vốn lớn, khả năng thu hồi vốn hết sức khó khăn, đặc biệt là việc đầu tư kết cấu hạ tầng đường sắt phải do Nhà nước đầu tư sẽ gây áp lực đối với trần nợ công, đồng thời với công nghệ hiện đại, chất lượng nhân lực cao, khối lượng bồi thường, giải phóng mặt bằng lớn, do vậy yêu cầu Dự án phải được nghiên cứu thận trọng, kỹ lưỡng, khoa học và đồng bộ toàn tuyến, có tính toán phân kỳ đầu tư phù hợp.
Do đó, Dự án cần xác định định hướng xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách huy động vốn, chương trình nội địa hóa phát triển công nghiệp đường sắt Việt Nam, có kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực phục vụ đường sắt tốc độ cao, làm cơ sở báo cáo Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương và Quốc hội quyết định.
Để hiện thực hóa Dự án này, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng yêu cầu Bộ GTVT khẩn trương nghiên cứu bổ sung quy định về cấp kỹ thuật đường sắt tốc độ cao vào tiêu chuẩn ngành và tiêu chuẩn quốc gia về cấp kỹ thuật đường sắt.
Song song với đó, Bộ GTVT cần sớm cập nhật các nghiên cứu, tổ chức nghiên cứu, tổ chức hội thảo, truyền thông và hoàn thiện báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án, trình Hội đồng thẩm định Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ thông qua năm 2017 để xem xét, trình Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương cho ý kiến và trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư vào năm 2018.
Sau khi được Quốc hội thông qua, Dự án cần chuẩn bị kỹ về thiết kế kỹ thuật và nguồn vốn để năm 2022 - 2030 thực hiện xong các dự án ưu tiên đoạn Hà Nội - Vinh; TP. Hồ Chí Minh - Nha Trang.
Để giải quyết bài toán về nguồn vốn cho Dự án, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ GTVT phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất với JICA tiếp tục hỗ trợ hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án; lựa chọn tư vấn nước ngoài thẩm tra Dự án trước khi trình Thủ tướng Chính phủ và Hội đồng thẩm định Nhà nước.
Bên cạnh đó, Phó Thủ tướng cũng yêu cầu các bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công thương, Khoa học và Công nghệ, Giáo dục và Đào tạo… chủ động nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách huy động vốn, các đề án về phát triển các lĩnh vực liên quan, bao gồm cả đào tạo nguồn nhân lực… phục vụ phát triển đường sắt tốc độ cao theo Chiến lược phát triển GTVT đường sắt Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050.
“Tái khởi động” là tất yếu
Cũng liên quan chương trình “tái khởi động” dự án xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, ngày 31/10 vừa qua, Bộ trưởng Bộ GTVT Trương Quang Nghĩa đã trình bày Tờ trình dự án Luật Đường sắt (sửa đổi) trước Quốc hội.
Cụ thể, Dự luật lần này dành Chương 8 với 5 Điều (từ Điều 88 đến Điều 92) cho nội dung về đường sắt tốc độ cao. Nội dung quy định cụ thể về chính sách phát triển, yêu cầu chung với đường sắt tốc độ cao, quản lý, bảo trì, quản lý an toàn và các yêu cầu chung khi đầu tư xây dựng đường sắt tốc độ cao.
Tái khẳng định tầm quan trọng của Dự án xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam trước Quốc hội và cử tri, Bộ trưởng Trương Quang Nghĩa nhấn mạnh: Thực hiện chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ đã giao Bộ GTVT nghiên cứu tiền khả thi của Dự án. Theo đó, dự kiến năm 2018, Bộ GTVT sẽ trình Chính phủ thẩm định, sau đó trình Quốc hội phấn đấu thông qua chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trước 2020. Do vậy, thời gian vừa qua, Bộ GTVT đã tập trung nghiên cứu các phương án xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam. Theo tính toán, trước mắt tốc độ chạy tàu được khai thác từ 160km/h đến dưới 200km/h. Đây là bước chuẩn bị để hoàn thiện và chạy tàu tốc độ ≥ 200km/h.
Tầm nhìn đến năm 2050, Ngành phấn đấu hoàn thành toàn tuyến đường sắt đôi tốc độ cao, khổ 1.435mm trên trục Bắc - Nam, sau năm 2050 khai thác với tốc độ 350km/h.
Trước đó, cuối năm 2013, trong báo cáo về Quy hoạch phát triển đường sắt đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Chính phủ ban hành tại Quyết định số 1436/QĐ -TTg ngày 10/9/2009 trình Bộ GTVT, Cục Đường sắt Việt Nam đã thừa nhận Dự án đầu tư xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam chưa chứng minh được các điều kiện cần và đủ, nên mới dừng ở bước Báo cáo đầu tư do Liên danh tư vấn Việt Nam thực hiện.
Năm 2010, Chính phủ từng trình đề án xây dựng đường sắt cao tốc Bắc - Nam với số vốn đầu tư 56 tỷ USD, nhưng sau đó bị Quốc hội bác.
Đầu năm 2015, Chiến lược Phát triển đường sắt đã được nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt. Theo đó, trước năm 2020, ngành GTVT sẽ nghiên cứu xây dựng mới đường sắt tốc độ cao, đường sắt khổ 1.435mm, điện khí hóa trên trục Bắc - Nam, chuẩn bị xây dựng trước những đoạn tuyến có nhu cầu vận tải lớn, như: Hà Nội - Vinh, TP. Hồ Chí Minh - Nha Trang.
Theo tính toán, trong giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2030, ngành Đường sắt phải đáp ứng khoảng 3 - 4% thị phần vận tải hành khách và 4 - 5% thị phần vận tải hàng hóa; đáp ứng khoảng 15 - 20% thị phần vận tải hành khách đô thị tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh; đến năm 2050 sẽ đáp ứng tối thiểu 5 - 8% thị phần vận tải hành khách và 5 - 6% thị phần vận tải hàng hóa và sau năm 2050, triển khai tổ chức khai thác đường sắt tốc độ cao tốc 350km/h.
Tag:
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.