Đầu tư đồng bộ, với cảng biển xây dựng mới chỉ nên có 1 pháp nhân
Chiều nay (22/12), Cục Hàng hải Việt Nam tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2023 và triển khai kế hoạch năm 2024. Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thắng cho rằng, tình hình thế giới đang trải qua giai đoạn rất khó khăn, xung đột tại một số khu vực diễn biến khó lường, kinh tế tại nhiều nước rơi vào suy thoái hậu Covid-19… ảnh hưởng đến nhiều mặt đời sống, trong đó có lĩnh vực hàng hải, đặc biệt là vấn đề nguồn hàng, thị trường và vận tải biển.
"Trong bối cảnh đó, khối lượng hàng hoá thông qua cảng biển năm 2023 vẫn tăng 5%, hành khách tăng 17%, lượt phương tiện thuỷ thông qua tăng 2%, an ninh an toàn hàng hải cơ bản đảm bảo, đội tàu biển Việt Nam vẫn nằm trong Danh sách trắng của Tokyo MOU... là những kết quả nổi bật cho thấy những cố gắng, nỗ lực và quyết tâm của ngành hàng hải bằng việc triển khai các nhiệm vụ sáng tạo, đổi mới", Bộ trưởng ghi nhận, đồng thời lưu ý: "Việc nhận diện, phản ứng chính sách rất quan trọng. Lãnh đạo Cục Hàng hải nên ghi nhận các ý kiến đóng góp tại hội nghị để giải quyết kịp thời những vấn đề thực tế đặt ra".
Về những nhiệm vụ trong thời gian tới, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng yêu cầu Cục Hàng hải tập trung hoàn thiện thể chế, rà soát văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực hàng hải, đặc biệt là đánh giá, tổng kết Bộ luật Hàng hải và trên cơ sở diễn biến của tình hình thực tế, những quy định bất cập để có những đề xuất chỉnh sửa, bổ sung trình Chính phủ, Quốc hội xem xét.
Đối với công tác xây dựng và triển khai các quy hoạch cảng biển, ngoài việc yêu cầu sớm hoàn thiện các đề án quy hoạch trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định, Bộ trưởng cho rằng, cần lấy định hướng từ cảng biển và xác định cảng biển là trung tâm kết nối các phương thức khác, đặc biệt với đường sắt và đường thuỷ.
"Quy hoạch cảng biển cần tầm nhìn dài hạn, đồng bộ, chuyên nghiệp nhưng quá trình đầu tư cũng cần linh hoạt, thậm chí điều chỉnh khi thực tế thay đổi. Với những cảng hiện có cần tính toán liên kết các doanh nghiệp cảng biển để tăng tính cạnh tranh. Còn với cảng biển đầu tư xây dựng mới, chỉ nên có một pháp nhân có tiềm lực, nếu không thì liên doanh liên kết, kể cả với doanh nghiệp hàng đầu thế giới", Bộ trưởng nói.
Bộ trưởng cũng cho rằng, trong cảng biển cần có bến thuỷ nội địa, vì đây là lợi thế của Việt Nam với hệ thống đường bờ biển dài, hệ thống sông ngòi đa dạng. Nếu kết nối tốt là điều kiện để giảm chi phí logistics.
Về vận tải biển, Bộ trưởng lưu ý việc xây dựng giải pháp đúng, trúng và đột phá để đạt các mục tiêu đề ra, đặc biệt khai thác tối đa tiềm năng vận tải đường biển và ven bờ. "Ở Nhật Bản cũng có nhiều điều kiện tự nhiên tương đồng Việt Nam và vận tải đường biển, ven bờ của họ đảm nhận đến 55% khối lượng vận chuyển. Ở Việt Nam, khi kết nối tốt vận tải biển, đường thuỷ với các phương thức khác, chúng ta có cơ hội giảm chi phí logistics thậm chí còn thấp hơn trung bình của thế giới", Bộ trưởng lấy ví dụ và cho rằng, muốn làm được điều đó phải có đề án, kế hoạch nâng thị phần vận tải hàng hoá bằng đường biển, ven bờ, nhất là trên trục Bắc – Nam.
Với một số nhiệm vụ khác, Bộ trưởng yêu cầu đẩy nhanh tiến độ nạo vét luồng hàng hải tại một số khu vực, nâng tĩnh không cầu; có giải pháp xây dựng đội tàu lớn mạnh, đa dạng, đủ sức cạnh tranh và quan tâm đến vận tải xanh; tăng cường hợp tác quốc tế; đảm bảo giao thông hàng hải thông suốt, an toàn, chủ động ứng phó với các tình huống xấu.
756,8 triệu tấn hàng thông qua cảng biển
Theo ông Hoàng Hồng Giang, Cục phó Cục Hàng hải Việt Nam (HHVN), trong năm 2023, triển khai Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Cục HHVN đã báo cáo Bộ GTVT chỉ đạo lập các quy hoạch kỹ thuật chuyên ngành hàng hải trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để làm cơ sở triển khai các dự án đầu tư xây dựng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội quốc gia và các địa phương.
Đồng thời, trong điều chỉnh quy hoạch tổng thể và trong lập quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển, cảng biển, Quy hoạch vùng đất, vùng nước cảng biển, sẽ tiếp tục có các đề xuất để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương trong tương lai. Trong năm 2023, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Trong năm 2023, ước tổng khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển năm 2023 là 756,8 triệu tấn, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2022, hàng container ước đạt 24,7 triệu TEUs, bằng với cùng kỳ năm trước. Lượt tàu biển thông qua cảng biển đạt 99,15 nghìn lượt giảm 1% so với cùng kỳ năm trước, lượt phương tiện thủy thông qua nội địa đạt 351,8 nghìn lượt, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước. Hành khách qua cảng biển đạt 7,04 triệu hành khách, tăng 17% so với năm 2022.
Cũng trong năm 2023, toàn quốc xảy ra 6 vụ tai nạn hàng hải; so với cùng kỳ năm 2022, số vụ tai nạn hàng hải giảm 1 vụ (6/7); số người chết và mất tích giảm 11 người (02/13); không có người bị thương, không có sự cố về an ninh hàng hải.
Các Cảng vụ Hàng hải đã thực hiện kiểm tra được 1.143 lượt phương tiện thủy nội địa mang cấp VR-SB, phát hiện 1.142 lượt tàu có khiếm khuyết với tổng số 4.182 khiếm khuyết; kiểm tra 923 lượt tàu biển Việt Nam hoạt động tuyến nội địa, phát hiện 833 lượt tàu có khiếm khuyết với tổng số 3.203 khiếm khuyết; kiểm tra 317 lượt tàu biển Việt Nam hoạt động tuyến quốc tế, phát hiện 296 lượt tàu có khiếm khuyết với tổng số 2.406 khiếm khuyết. Kiểm tra 2.847 lượt tàu biển nước ngoài, trong đó 2.504 lượt tàu biển kiểm tra lần đầu, phát hiện 942 lượt tàu có khiếm khuyết với tổng số 2.324 khiếm khuyết và lưu giữ 5 lượt tàu.
Tại các cảng biển khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (Tokyo MOU) đã có 1.064 lượt tàu biển Việt Nam bị kiểm tra (trong đó bao gồm 858 lượt tàu biển kiểm tra lần đầu, 206 lượt tàu biển kiểm tra theo dạng follow-up), phát hiện 2.734 khiếm khuyết liên quan đến 756 lượt tàu, đã có 39 lượt tàu bị lưu giữ (tỷ lệ lưu giữ 4.54%) tại cảng của các thành viên thuộc Tokyo MOU. Hiện tại, đội tàu biển Việt Nam vẫn nằm trong Danh sách Trắng của Tokyo MOU.
Các đại biểu tham luận tại Hội nghị
Năm 2024, Cục HHVN dự kiến xây dựng một số nhiệm vụ chính như: Tiếp tục phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan, tiếp thu, giải trình, hoàn thiện, trình bộ GTVT các văn bản QPPL theo chương trình công tác; Triển khai xây dựng 3 đề án quy hoạch gồm: Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Đề án Quy hoạch chi tiết các Nhóm cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050; Đề án lập Quy hoạch chi tiết phát triển vùng đất, vùng nước cảng biển thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050.
Bên cạnh đó, xây dựng Đề án quản lý du thuyền; rà soát xây dựng, hoàn thiện các quy định quản lý tàu lặn; tiếp tục triển khai Kế hoạch triển khai thực hiện đề án phát triển đội tàu vận tải biển của Việt Nam; Tiếp tục triển khai thực hiện 5 Dự án đầu tư xây dựng theo kế hoạch; tiếp tục quản lý, giám sát thực hiện các Hợp đồng cho thuê các bến cảng. Đôn đốc, kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án nạo vét duy tu; kiểm tra, rà soát việc thực hiện bảo trì công trình hàng hải theo quy định; Xây dựng, báo cáo Bộ GTVT Đề án tăng cường sự hiện diện và nâng cao hoạt động của Việt Nam tại IMO...
Quy mô của ngành logistics Việt Nam khoảng 60 - 70 tỷ USD/năm
Việt Nam có 8 trung tâm logistics, 12 cảng cạn và 16 điểm thông quan hàng hóa (ICD). Các cảng cạn, ICD phân bổ tập trung trên 5 hành lang và khu vực kinh tế trong tổng số 15 hành lang và khu vực kinh tế có quy hoạch cảng cạn, trong đó hành lang kinh tế ven biển ở miền Bắc đã hình thành 4 trong tổng số 5 cảng cạn được quy hoạch.
Hiện nay, chi phí Logistics trung bình ở mức tương đương 16,8 - 17% GDP và vẫn còn khá cao so với mức bình quân chung của thế giới (hiện khoảng 10,6%), tuy nhiên đã cơ bản tiệm cận mục tiêu của Chính phủ đề ra tại Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam đến năm 2025 với mục tiêu chi phí Logistics giảm tương đương 16% - 20% GDP.
Quy mô của ngành logistics Việt Nam hiện nay khoảng 60 - 70 tỷ USD/năm, trong đó hoạt động vận tải được xác định chiếm tới 60% (tương đương khoảng 35 - 40 tỷ USD/năm), do đó việc giảm chi phí vận tải, đặc biệt là lĩnh vực vận tải biển (chiếm 90% hàng hóa xuất nhập khẩu của nước ta) có vai trò rất quan trọng nhằm kéo giảm chi phí logistics nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Tag:
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.