Ảnh minh họa |
Theo ông Điệp, hiện cả nước có 9.983 km quốc lộ quá thời hạn trung tu lớp mặt đường, 5.168 km quá thời hạn đại tu cả móng và mặt đường. Ngoài ra, trên các quốc lộ hiện có 358 cầu yếu, cầu hạn chế về tải trọng chưa được thay thế.
Kinh phí bảo trì đường quốc lộ trong giai đoạn 2013 – 2018 đã tăng đều đặn, lần lượt là: 4.668 tỷ đồng, 5.784 tỷ đồng, 6.791 tỷ đồng, 7.642 tỷ đồng, 7.877 tỷ đồng và 8.314 tỷ đồng.
Về bảo dưỡng và vận hành các công trình, ông Điệp cho hay trong giai đoạn 2017 – 2019, chi phí bảo dưỡng là 1.220 tỷ đồng/năm. Chi phí này bao gồm các hoạt động thống kê hạ tầng đường bộ, sửa chữa hư hỏng nhỏ phát sinh, quét dọn rác, lau và sơn lại biển báo, vạch sơn kẻ trên đường, duy trì trạng thái an toàn giao thông và thoát nước.
Công tác vận hành các bến phà, cầu phao, hầm, chi trả tiền điện chiếu sáng, chi phí kiểm soát và tổ chức giao thông trên đường cao tốc cũng gắn vào công tác bảo dưỡng và mỗi năm cần 150 -250 tỷ đồng để thực hiện các công việc này.
Theo đánh giá của TS Điệp, chi phí dành cho bảo dưỡng cầu đường hiện đang ở mức quá thấp, mức chi đạt khoảng từ 20% -30% mức chi tiêu chuẩn.
Về sửa chữa công trình đường bộ, ông Điệp thông tin: vốn dành cho công tác sửa chữa khoảng 6.500 -7.200 tỷ đồng/năm. Trong đó, sửa chữa định kỳ theo kế hoạch khoảng 5.500 tỷ/năm, còn lại là sửa chữa đột xuất phát sinh trong năm (sửa chữa khắc phục bão lũ thiên tai, xử lý điểm đen, sửa chữa đột xuất khác.
Nguồn tài chính cho việc thực hiện sửa chữa mặt đường, theo ông Điệp, là thấp, thiếu hụt nhiều. Hiện nay mới đáp ứng khoảng 30% lượng vốn tiêu chuẩn để thực hiện.
Ông Điệp cũng cho rằng khó khăn của việc bảo trì mặt đường quốc lộ hiện nay là việc giao vốn theo luật pháp rất chậm trễ, nhưng chính luật pháp lại quy định công tác sửa chữa từ lúc giao vốn đến khi hoàn thành quyết toán dự án sửa chữa chỉ trong 1 năm tài chính (trong khi thời gian lựa chọn nhà thầu đã mất 2 tháng, thời gian khảo sát thiết kế mất vài tháng).
“Luật Xây dựng và Nghị định của Chính phủ bắt buộc chủ đầu tư và thiết kế phải quy định tuổi thọ thiết kế công trình, nhưng điều này ở Việt Nam chưa được nghiên cứu và chưa được thực hiện. Do đó không có cơ sở cho việc xác định thời điểm được tiến hành sửa chữa định kỳ”, ông Điệp cho biết.
Vị Tiến sĩ của Tổng cục Đường bộ Việt Nam thông tin: để giải quyết những khó khăn nêu trên, Tổng cục này đã xây dựng đề án nâng cao hiệu quả công tác bảo trì quốc lộ giai đoạn 2020 – 2030 để trình Chính phủ.
Tại đề án này, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã xác định tổng nguồn vốn cần cho công tác bảo trì từ 2020 – 2030 là 354.845 tỷ đồng (tương đương 15,3 tỷ USD), bình quân 32.258 tỷ đồng/năm (tương đương 1,39 tỷ USD/ năm).
“Hiện nay đề án chưa được duyệt, do đó trong quá trình thẩm định tư vấn có thể xây dựng thêm các kịch bản khác. Đề án trên sẽ là cơ sở quan trọng để bố trí vốn khắc phục các tồn tại của hệ thống quốc lộ, đồng thời là điều kiện để hiện đại hóa công tác bảo trì quốc lộ”, ông Điệp cho biết.
Cũng theo ông, trong thời gian đề án chưa được duyệt, Bộ Giao thông vận tải đang chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam xây dựng kế hoạch bảo trì hàng năm với mức tăng chi phí từ 10 – 20%/ năm.
Tag:
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.