ª TS. Nguyễn Thúy Hồng Vân ª PGS. Ts. Hồ Thị Thu Hòa ª ThS. Bùi Thị Bích Liên ª ThS. Trần Thị Thường Trường Đại học Giao thông vận tải TP. Hồ Chí Minh Người phản biện: GS. TSKH. Nghiêm Văn Dĩnh PGS. TS. Vũ Ngọc Bích |
Tóm tắt: Trong những thập kỷ qua, thế giới đã chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ của lĩnh vực logistics với vai trò của công nghệ thông tin (CNTT) như là xương sống của toàn bộ chuỗi dịch vụ logistics [6]. Ứng dụng CNTT không chỉ nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty logistics mà còn góp phần đáp ứng yêu cầu ngày càng gia tăng của khách hàng. Bài báo thảo luận về thực trạng cũng như đề xuất một số giải pháp để ứng dụng hiệu quả CNTT nhằm cải thiện hoạt động logistics của Việt Nam.
Từ khóa: Logistics, công nghệ thông tin, hiệu quả thực hiện hoạt động logistics.
Abstract: Over the past decades, the world has has observed the booming growth of logisctics industry with the role of information and communication technology (ICT) as the backbone of the whole logistics service chain [6]. ICT application not only improves logistics companies’ performance but also satisfies logistics services users’ increasing demands. This paper is to discuss on the current situation arising in ICT application and give some recommendations to apply efficient ICT in logistics sector in order to improve Vietnam logistics performance.
Keywords: Logistics, information and communication technology, logistics performance index.
1. Đặt vấn đề
CNTT là một thành phần quan trọng trong hạ tầng mềm của lĩnh vực logistics [4] với nhiều giá trị gia tăng (GTGT) cho khách hàng từ các dịch vụ sử dụng ứng dụng CNTT trực tiếp đến gián tiếp [2]. Tuy nhiên, sự quan tâm đến việc ứng dụng CNTT vào hoạt động logistics của các công ty logistics Việt Nam vẫn còn hạn chế. Kết quả từ một cuộc khảo sát [2] được thực hiện vào năm 2014 cho thấy, chỉ có 6,7% công ty logistics nhận định rằng, CNTT là một trong những yếu tố cạnh tranh chính của các doanh nghiệp logistics. Do đó, nghiên cứu thực trạng ứng dụng CNTT trong lĩnh vực logistics và đề xuất những giải pháp hữu hiệu là rất cấp thiết và đòi hỏi sự tham gia tích cực của các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp cũng như các nhà hoạch định chính sách.
2. Đánh giá của Ngân hàng thế giới (World Bank) về hiệu quả thực hiện của lĩnh vực logistics Việt Nam giai đoạn 2007 - 2014
Chỉ số đánh giá hiệu quả thực hiện logistics (LPI-Logistics Performance Index) và các chỉ số thành phần được thực hiện bởi Ngân hàng thế giới (WB-World Bank) nhằm giúp các quốc gia trên thế giới nhìn nhận khách quan năng lực thực hiện hoạt động logistics, từ đó nhận diện những thách thức và cơ hội. WB thực hiện các cuộc khảo sát LPI định kỳ từng 2 năm [5]. Mặc dù có tốc độ phát triển cao (trung bình 20%), nhưng khả năng kết nối thông tin cũng như vấn đề về thời gian trong lĩnh vực logistics Việt Nam còn chưa có nhiều biến chuyển nổi bật.
Trong cuộc khảo sát thực hiện đầu năm 2014, WB đã tăng số quốc gia được khảo sát lên 160, và LPI của Việt Nam đã thay đổi vượt bậc từ vị trí 53/155 (không thay đổi trong giai đoạn 2007 - 2012) lên vị trí 48/160 quốc gia (năm 2014). Chỉ số LPI và các chỉ số thành phần của logistics Việt Nam qua các năm được thể hiện chi tiết ở Bảng 2.1. Trong 6 chỉ số đánh giá nói trên, đáng chú ý là hai chỉ số “Khả năng kết nối thông tin - Tracking & tracing” và “Thời gian - Timeliness” của Việt Nam có sự thay đổi chưa khả quan.
Bảng 2.1. LPI và các chỉ số đánh giá thành phần của logistics Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2014
Với sự cải thiện tích cực ở vị trí 47 (năm 2012) so với 55 (năm 2010), sang năm 2014, chỉ số “Tracking & tracing” của logistics Việt Nam bị xuống bậc ở vị trí 48 trong khi đó yếu tố “Timeliness” đã bị sụt giảm nghiêm trọng từ vị trí 38 (năm 2012) xuống vị trí 56 (năm 2014). CNTT là một trong những yếu tố quan trọng đáp ứng “7 đúng” và có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tìm kiếm và xác định tình trạng hàng hóa cũng như toàn bộ các hoạt động logistics chẳng hạn như làm thủ tục khai báo hải quan, vận chuyển hàng hóa, xử lý đơn hàng hoặc kiểm soát hoạt động kho hàng, qua đó có tác động đến vấn đề thời gian trong toàn bộ chuỗi dịch vụ logistics. Vì vậy, để cải thiện hai chỉ số “Tracking & tracing” và “Timeliness”trong hoạt động logistics của Việt Nam, cần chú trọng công tác đánh giá thực trạng ứng dụng CNTT trong lĩnh vực logistics một cách cụ thể, qua đó tìm ra những giải pháp dài hạn nhằm đầu tư đúng hướng và phát triển ứng dụng CNTT một cách hiệu quả trong hoạt động logistics của Việt Nam.
3. Đánh giá thực trạng ứng dụng CNTT trong hoạt động logistics của Việt Nam
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ tình hình thực tế, nhóm nghiên cứu đã tiến hành thu thập số liệu sơ cấp (theo mục tiêu đề ra) và một số nguồn số liệu thứ cấp (từ WB, Tổng cục thống kê Việt Nam và các nguồn tài liệu chính thức khác). Phương pháp khảo sát dựa trên bảng câu hỏi với hình thức chuyển tiếp các bảng câu hỏi đến người tham gia khảo sát (snowball) đã được áp dụng, qua đó đã thu thập ý kiến từ 97 đối tượng khảo sát là các công ty logistics với các câu hỏi được thiết kế theo hình thức đóng, mở hoặc nhiều lựa chọn với các câu trả lời lựa chọn hoặc đánh giá theo thang đo Likert với 5 cấp độ khác nhau (Bảng 3.1).
Bảng 3.1. Thông tin chung về quá trình thực hiện khảo sát
Các công ty kinh doanh dịch vụ logistics từ 2 PL (party logistics) trở lên tham gia vào cuộc khảo sát nhằm đánh giá thực trạng, nhận diện những rào cản cũng như nhận thức được vai trò quan trọng của việc ứng dụng CNTT trong hoạt động logistics của công ty, từ đó góp phần cải thiện hiệu quả hoạt động và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp logistics Việt Nam tại thị trường nội địa và quốc tế.
3.2. Tình hình ứng dụng CNTT ở các công ty logistics
- Tổng quan về các công ty tham gia khảo sát
Trong số 97 công ty logistics tham gia khảo sát thì chiếm phần lớn là các công ty TNHH (40,2%) và công ty cổ phần (38,1%), còn lại là công ty liên doanh (8,3%), công ty nhà nước (6,2%), chỉ có 5,2% công ty có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và công ty tư nhân (2,1%). Số liệu này cũng phản ánh một thực tế là mặc dù chiếm số lượng ít nhưng các công ty logistics nước ngoài lại chiếm thị phần chính trong toàn bộ thị trường logistics của Việt Nam. Các dịch vụ logistics được cung cấp chủ yếu tập trung ở mảng hoạt động giao nhận (47,4%), vận tải đường bộ (26,8%), làm thủ tục hải quan (19,6%) và vận tải biển (17,5%) trong khi những hoạt động tạo GTGT nhiều như kho hàng hay dịch vụ phân phối chiếm tỷ trọng còn khiêm tốn (20,6%).
- Nguồn nhân lực CNTT trong lĩnh vực logistics
Do các dịch vụ logistis được cung cấp còn ở mức độ đơn giản và tính tích hợp chưa cao nên hầu hết các công ty logistics là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) với 60,62% công ty có nhân lực logistics dưới 50 người. Trong đó, có đến 86% công ty có số nhân viên chuyên trách CNTT dưới 5 người (44,3% công ty có nhân viên CNTT dưới 2 người) (Hình 3.1).
Hình 3.1: Số lượng nhân viên CNTT và nguồn cung cấp nhân viên CNTT |
Chính vì vậy, phần lớn công ty (40,2%) sử dụng kết hợp nhân viên CNTT trong nội bộ và đi thuê ngoài cho hoạt động logistics của mình. Kết quả khảo sát này cho thấy mức độ chuyên sâu về CNTT của các công ty logistics còn khá thấp cũng như vấn đề nhân lực CNTT chưa thực sự được chú trọng đầu tư và phát triển tại các công ty logistics.
Một tín hiệu tích cực đó là việc bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ cho nhân viên được chú trọng với kết quả 80,4% công ty được khảo sát có kế hoạch nâng cao kỹ năng và kiến thức cho hoạt động công nghệ thông tin. Tuy nhiên, chỉ có 56,3% công ty thực hiện huấn luyện hàng năm, việc đào tạo nhân lực CNTT cũng phụ thuộc phần lớn vào các nhà cung cấp giải pháp phần mềm (73,2%) trong khi đó những khóa bồi dưỡng chuyên môn dành cho nhân viên CNTT ở nước ngoài chỉ được thực hiện tại 8,2% công ty.
- Nhận thức về lợi ích và vai trò của CNTT
Lợi ích của CNTT được các công ty logistics nhìn nhận ở mức độ khác nhau, tuy nhiên đều có những điểm chung đó là cải thiện tình hình kiểm soát và lên kế hoạch dễ dàng hơn (70,1% công ty), nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty (70,1%), giảm thiểu lỗi do con người gây ra (67%), giảm chi phí nhân lực trong quản lý (61,9%), cải thiện quan hệ khách hàng (60,8%) và giảm thiểu chi phí (57,7%).
CNTT đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của các công ty cung cấp dịch vụ logistics và được xem như huyết mạch kết nối các thành phần của toàn bộ chuỗi dịch vụ logistics. Mặc dù nhận thức được lợi ích của CNTT như nêu trên nhưng có đến 44% công ty không đánh giá cao vai trò quan trọng của CNTT đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Chính vì vậy, khi đề cập đến chiến lược phát triển CNTT thì chỉ có 61,9% công ty chú trọng vấn đề này. Bên cạnh đó, 43,3% công ty logistics cho rằng CNTT chưa được xem là một yếu tố then chốt tạo ra lợi thế cạnh tranh. Đây thực sự là những tín hiệu cần lưu ý khi thời điểm hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) đang đến gần hơn vào cuối năm 2015. Việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực đòi hỏi sự đầu tư lớn hơn và phát triển dài hạn hơn trong lĩnh vực CNTT để có thể tạo ra sự kết nối khu vực mang tầm chiến lược và bền vững trong lĩnh vực logistics, đặc biệt ở các SMEs khi bên cạnh những cơ hội mà AEC mang đến cho họ thì còn quá nhiều thách thức cần phải đối mặt để có thể cạnh tranh một cách ngang bằng với các đối thủ đến từ AEC.
- Chi phí dành cho CNTT trong tổng chi phí logistics
Vai trò của CNTT chưa được đánh giá một cách đúng đắn, do đó hầu hết các công ty tham gia khảo sát (70,8%) chỉ sử dụng một phần rất nhỏ kinh phí cho CNTT, dưới 3% tổng ngân sách cho logistics. Thậm chí, 32,3% công ty sử dụng ít hơn 0,5% tổng ngân sách logistics cho CNTT. Hình 3.2 cho thấy rõ lượng ngân sách khá khiêm tốn được sử dụng cho CNTT:
Hình 3.2: Chi phí CNTT trong tổng chi phí logistics |
Một trong những nguyên nhân cho tình trạng này là do hầu hết các công ty logistics là vừa và nhỏ. Do đó, vấn đề thiếu vốn đã dẫn đến thực tế các công ty này thường chú trọng tập trung ngân sách cho các hoạt động kinh doanh trực tiếp và coi nhẹ đầu tư cho mảng CNTT. Khi CNTT chỉ được xem như là yếu tố thứ yếu thì những lợi ích mang lại từ CNTT đối với hoạt động logistics sẽ càng trở nên mờ nhạt. Hiện trạng này xảy ra ở nhiều doanh nghiệp logistics sẽ có tác động đến toàn ngành và đi ngược lại với xu thế của thế giới khi vấn đề CNTT ngày càng được đề cao ở cấp độ 5PL (e-logistics).
- Các ứng dụng CNTT chủ yếu đang và dự tính sẽ được sử dụng (Hình 3.3)
Việc lựa chọn ứng dụng CNTT phù hợp với tình hình kinh doanh của mỗi doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả thực hiện dịch vụ logistics, ngược lại, việc đầu tư dàn trải, không trọng điểm và bất hợp lý lại là lý do khiến các doanh nghiệp logistics hoạt động đình trệ, chi phí cao và không theo kịp xu hướng phát triển CNTT.
Các công ty tham gia khảo sát đã có rất nhiều nỗ lực trong việc ứng dụng CNTT vào hoạt động logistics, tuy nhiên, vẫn chỉ tập trung vào một số ứng dụng đã phổ biến trên thế giới như thương mại điện tử/kinh doanh qua internet (59,8%), hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử ( EDI) (59,8%), hệ thống quản lý giao nhận (49,5%), hệ thống quản lý vận tải (45,4%), hệ thống định vị toàn cầu (45,4%), phần mềm quản lý đặt hàng (43,3%) và quản lý mối quan hệ khách hàng (42,3%). Trong khi đó, việc ứng dụng CNTT hiện đại tại các công ty rất hạn chế chẳng hạn như phần mềm quản lý kho hàng (27,8%), công nghệ nhận dạng bằng sóng vô tuyến - RFID (14,4%) và logistics đám mây (4,1%). Thực tế này cũng xuất phát từ lý do phần lớn các công ty logistics Việt Nam chủ yếu cung cấp các dịch vụ logistics ở cấp độ đơn giản như giao nhận và vận tải.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, chiến lược phát triển CNTT chưa được chú trọng xây dựng, do đó, phần lớn các công ty logistics còn rất thận trọng trong việc dự tính đầu tư cho các ứng dụng CNTT trong tương lai. Phần mềm quản lý kho hàng được dự tính đầu tư nhiều nhất cũng chỉ có 36,1% công ty, tiếp đó là logistics đám mây (29,9%), hoạch định nguồn lực (29,9%), hệ thống quét mã vạch (Barcode) (25,8%) và Kanban (18,6%).
Hình 3.3: Các ứng dụng CNTT đang và dự định sẽ được sử dụng của các công ty logistics Việt Nam |
- Rào cản đầu tư vào CNTT của các công ty logistics
Các công ty logistics đang đứng trước rất nhiều thách thức để cạnh tranh và phát triển, do đó, việc ra quyết định đầu tư nhằm phát huy lợi ích thiết thực của CNTT phải cân đối với ngân sách, tạo ra hiệu quả và đảm bảo tương thích hệ thống hiện tại. Bên cạnh đó, các công ty còn phải đối mặt với rất nhiều rào cản trước khi đầu tư vào ứng dụng CNTT (Hình 3.4).
Hình 3.4: Những rào cản trong việc đầu tư vào công nghệ thông tin của các công ty logistics |
Những rào cản có thể kể đến bao gồm chuẩn EDI khác biệt giữa các công ty (54,6%), chi phí đầu tư và vận hành cao (50,5%), như đã đề cập phía trên. Hầu hết các công ty cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, tiềm năng vốn chưa đủ mạnh khiến cho họ cảm thấy khá khó khăn trong việc ra quyết định có nên đầu tư vào phần mềm khi chưa có sự đảm bảo trong việc thu hồi vốn. Một rào cản khác nữa là việc thiếu kỹ năng vận hành kỹ thuật (41,2%) và thiếu nhân viên được huấn luyện một cách bài bản (37.1%). Tiếp đến là có quá nhiều giải pháp phần mềm để lựa chọn (35,1%), do đó nếu ra quyết định đầu tư có thể dẫn đến không hiệu quả khi tiếp nhận những ứng dụng không phù hợp với đặc thù của công ty.
4. Một số giải pháp nhằm phát triển ứng dụng CNTT trong lĩnh vực logistics Việt Nam
4.1. Đề xuất đối với các công ty logistics Việt Nam
- Nâng cao nhận thức về vai trò của CNTT:Các công ty cần nhìn nhận vai trò của CNTT như là một trong những yếu tố tạo nên sự hài lòng của khách hàng và góp phần cải thiện chất lượng dịch vụ logistics. Ngoài ra, các công ty cũng cần chú trọng xây dựng chiến lược CNTT như là một phần quan trọng trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
- Đầu tư vào các ứng dụng CNTT cần thiết:Hạ tầng CNTT cần được chú trọng cải thiện và xây dựng mới, đặc biệt ứng dụng hệ thống EDI nhằm từng bước cải thiện công tác chuyển giao dữ liệu và số hóa dữ liệu, tăng tính bảo mật và tốc độ chuyển giao dữ liệu. Một phần ngân sách cho hoạt động kinh doanh cần được sử dụng để đầu tư vào CNTT nhằm ứng dụng hiệu quả những phần mềm mới cần thiết cho hoạt động logistics như RFID, Barcode, đám mây logistics… Đặc biệt, các công ty logistics có thể hướng đến sự hợp tác với các công ty phần mềm để đặt hàng những ứng dụng chuyên biệt với công ty, qua đó có thể tận dụng tối đa hiệu quả của từng ứng dụng.
- Nguồn nhân lực CNTT:Các công ty cần coi trọng công tác tuyển dụng, đào tạo và huấn luyện nhân sự chuyên môn CNTT. Kết hợp với các trung tâm đào tạo nguồn nhân lực hoặc các trường đại học để đào tạo đội ngũ cán bộ CNTT có kiến thức về logistics. Có thể sử dụng các khóa đào tạo tại chỗ theo yêu cầu của doanh nghiệp (tailor-made) để đảm bảo nhân viên CNTT được huấn luyện theo đúng đặc thù của công việc.
4.2. Đề xuất đối với các cơ quan quản lý
- Chính sách phát triển CNTT:Nhà nước cần chú trọng đầu tư hạ tầng CNTT và có chính sách khuyến khích cũng như hỗ trợ tài chính để các công ty logistics nhỏ và vừa có thể đầu tư vào các ứng dụng CNTT.
- Thủ tục hải quan:Thúc đẩy thực hiện quá trình khai báo hải quan điện tử VNACCS/VCIS (Vietnam Automated Cargo and Port Consolidated System/ Vietnam Customs Intelligent System), từ đó tạo động lực để các công ty logistics chủ động nâng cấp hạ tầng và ứng dụng CNTT phù hợp.
- Chiến lược phát triểnCNTT:Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển CNTT cho toàn ngành có tính dài hạn song hành cùng với chiến lược phát triển lĩnh vực logistics đến 2020, định hướng 2030. Chủ trương của các nhà lãnh đạo AEC là hướng tới “Cửa sổ chung ASEAN (The ASEAN Single Window)” nhằm đảm bảo sự tương thích của mạng lưới CNTT từng quốc gia với tiêu chuẩn chung của quốc tế từ đó kết nối và tích hợp tất cả “Cửa sổ từng quốc gia ASEAN (National Single Window)” vì mục tiêu chuyển giao dữ liệu điện tử an toàn, tin cậy, rút ngắn thời gian xử lý hàng hóa và tạo sự minh bạch đặc biệt với thủ tục hải quan. Vì vậy, việc xây dựng mạng lưới CNTT thông suốt toàn diện kết nối từ các cơ quan quản lý nhà nước, hải quan, tới các doanh nghiệp logistics và chủ hàng là vấn đề vô cùng cấp thiết.
- Đầu tư nghiên cứu và phát triển ứng dụng CNTT:Nhà nước cần ban hành chính sách hỗ trợ và khuyến khích các công ty phần mềm đầu tư nghiên cứu và phát triển ứng dụng CNTT theo chuẩn quốc tế, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty logistics trong nước tiếp cận được với các ứng dụng phù hợp với khả năng tài chính.
- Hợp tác quốc tế:Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và chuyển giao các ứng dụng CNTT phù hợp với thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp logistics, đặc biệt là SMEs.
5. Kết luận
Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được thông qua vào ngày 4/10/2015 [7] và sự hình thành chính thức Cộng đồng AEC vào cuối năm 2015 [10] sẽ mở ra rất nhiều cơ hội cho lĩnh vực logistics Việt Nam nhưng cũng tạo ra những thách thức to lớn. Các công ty logistics Việt Nam cần vững vàng đối mặt trước những đối thủ trong khu vực có những lợi thế cạnh tranh nổi bật về tiềm lực tài chính, hạ tầng, công nghệ, nguồn nhân lực và đặc biệt là CNTT hiện đại. Do vậy, ứng dụng CNTT phù hợp và hiệu quả không chỉ là bài toán của riêng các công ty logistics mà còn là trách nhiệm cần tham gia của các cơ quan quản lý nhằm xây dựng chính sách phù hợp tạo động lực và thúc đẩy CNTT trong lĩnh vực logistics phát triển bền vững.
Tài liệu tham khảo
[1]. Coyle et al. (2002), The Management of Business Logistics, 7th. Thomson South Western.
[2]. Crowley, A. (1998), Vitural logistics: Transport in the marketspace, International Journal of Physical Distribution & Logistics Management, pp.547-574.
[3]. Hồ Thị Thu Hòa(2014), Một số giải pháp nhằm cải thiện chất lượng chuỗi dịch vụ logistics của Việt Nam - trường hợp của TP. Hồ Chí Minh (Đề tài NCKH cấp trường, Trường Đại học GTVT TP. Hồ Chí Minh).
[4]. Evangelista, P. and Sweeney, E. (2003), The use of ICT by logistics service providers and implications for training needs: A cross-country perspective, Proceedings of the European Transport Conference (ETC), 8-10 October, Strasbourg, France.
[5]. Ho Thi Thu Hoa, Nguyen Thuy Hong Van, Bui Thi Bich Lien, Tran Thi Thuong (25-26 June 2015), Improving Vietnamese logistics performance through applying efficient ICT, Proceedings of the 8th International conference of Asian shipping and logistics, Vietnam Academy of Social Sciences, Hanoi, Vietnam, Transport Publishing House, ISBN: 978-604-76-0539-2.
[6]. LAMBERT D. et al. (2001), Strategic Logistics Management, 4th. edition. New York: McGraw-Hill, 872tr, ISBN 0-256-13687-4.
[7]. World Bank (2007, 2010, 2012, 2014), Connecting to compete: Trade logistics in the global, New York: World Bank.
[8]. “Vietnam to apply ASEAN Single Window”,http://news.chinhphu.vn/Home/VN-to-apply-ASEAN-Single-Window/20158/25201.vgp (truy cập ngày 1/9/2015).
[9]. “Summary of the Trans-Pacific Partnership Agreement”, https://ustr.gov/about-us/policy-offices/press-office/press-releases/2015/october/summary-trans-pacific-partnership (truy cập ngày 10/10/2015).
[10]. “Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)”, http://asean.mofa.gov.vn/vi/nr130930205728/nr130930210355/ns131113230924/newsitem_print_preview (truy cập ngày 10/10/2015).
Tag:
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.